Nơi chia sẻ những điều thú vị...

Bài kết thúc môn Giáo lý

Câu hỏi: Bạn sẽ khởi sự từ đâu để nói cho con người của thời đại hôm nay hiểu và dễ dàng đón nhận đức tin Công giáo của chúng ta? Tại sao?

Đối thoại Phaedo và Linh tượng thuyết

Tóm lại, đối thoại Phaedo có tương quan rõ nét với thuyết linh tượng của Plato. Tuy nhiên, có một vấn đề mà người viết còn thắc mắc và muốn suy tư thêm. Linh hồn tuy bất tử và vĩnh cửu nhưng liệu nó có bất biến không? Nếu bất biến thì phải giải thích thế nào về thuyết hồi tưởng. Nếu không bất biến thì tri thức mà lý trí - một chức năng của linh hồn - đạt được, liệu có chắc chắn như Plato mong muốn?

Vấn đề Vô minh trong Phật học nguyên thủy và triết hệ Advaita Vedanta

Đa phần những bộ phim ấy đều có chung một mô tuýp: khởi đầu là cảnh thuận buồm xuôi gió trong tình yêu của nam nữ chính; tiếp đến là những tình tiết trắc trở, gập ghềnh xảy đến với họ, mà nguyên nhân là do những hiểu lầm của chính họ hoặc do những mối thù truyền kiếp của các thế hệ trước; sau cùng, khi những hiểu lầm ấy được hóa giải, hai nhân vật chính sẽ được ở bên nhau trọn đời, trừ một vài trường hợp có kết thúc buồn.

Sách mới: Phó Thác Hoàn Toàn - Những Lá Thư Gửi Các Chủng Sinh

“Cha Najim đã viết một bộ sưu tập những lá thư rất hay theo truyền thống Lectio Divina (Gặm nhấm Thiên Thư). Các chủng sinh, những người dành thời gian để suy nghĩ trong cầu nguyện những lời của ngài sẽ tiến xa hơn trên con đường phân định ơn gọi linh mục.”

Sách mới: Lời Giới thiệu

Các khía cạnh quan trọng nhất của tiến trình biện phân là cầu nguyện và suy gẫm thiêng liêng. Qua sự hiệp thông cá vị với Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được chúng ta là ai và chúng ta đang được kêu gọi để làm gì trong cuộc sống này. Việc cầu nguyện đúng nghĩa đòi hỏi thời gian và sự tập trung.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Đời tu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đời tu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 15 tháng 9, 2021

Sách mới: Phó Thác Hoàn Toàn - Những Lá Thư Gửi Các Chủng Sinh

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI:

PHÓ THÁC HOÀN TOÀN

Những Lá Thư Gửi Các Chủng Sinh


Nguyên tác Anh ngữ: Radical Surrender: Letters to Seminarians

Tác giả: Father Michael J. Najim

Người dịch: Nhã Các Bá

 


MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ

1. “Cha Najim đã viết một bộ sưu tập những lá thư rất hay theo truyền thống Lectio Divina (Gặm nhấm Thiên Thư). Các chủng sinh, những người dành thời gian để suy nghĩ trong cầu nguyện những lời của ngài sẽ tiến xa hơn trên con đường phân định ơn gọi linh mục.”

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

Nghĩ về nó



Chiều nay trời mưa, nó đứng cạnh cửa sổ, đưa mắt nhìn vào khoảng không và đăm chiêu suy nghĩ về thuở ban đầu đã qua, cái thuở mà có lần nó tâm sự với tôi là nó rất-hạnh-phúc. Kể từ ngày bước chân vào Nhà Ứng Sinh đến nay đã được bốn tháng tròn, đây là lần đầu tiên tôi thấy nó có vẻ buồn và nghĩ nhiều. Bình thường nó không như thế. Mà lúc nào nó cũng nhảy nhót, hồn nhiên và đôi khi là phá phách nữa. Nó cũng rất ngây thơ, sự ngây thơ của dân tỉnh lẻ, không đáng quan tâm nhưng lại tạo cho nó một vẻ gì đó hơi ngu ngốc, ngu ngốc theo kiểu đáng yêu, số 1 cộng đoàn nhận xét như vậy. Nhưng ở đời không như ta nghĩ, sự phá phách cùng với tính ngây thơ của nó đã không ít lần khiến các anh em dở khóc dở cười. Chẳng hạn như, có một bữa, số 1 vào nhà vệ sinh phụ có khóa bên ngoài, thế là chuyện gì đến cũng phải đến, số 1 phải năn nỉ nó nó mới chịu tha. Cũng có lần, anh P nhà nó ra ban công chăm sóc cây cảnh, nó ở bên trong, khóa cửa lại và bỏ xuống lầu. Anh P năn nỉ nó thế nào nó cũng không mở và anh phải nhờ người khác. Hay như những giờ thể thao, nó không biết đá bóng nên lúc nào nó cũng theo sát trái bóng và nhiều lần nó cướp bóng của người khác một cách “trắng trợn” và buồn cười. Còn ở trong nhà, nó không chừa hay nể nang bất kì ai, hễ ai sơ hở là nó “chộp” lấy và “bắn” ngay. Vì với nó, cuộc sống phải thật tự nhiên thì mới phát triển con người được. Nghĩ thế nên lúc nào tôi cũng thấy nó vui tươi và trong sáng. Nó không nghĩ được nhiều. Nó chỉ biết có ba việc: ăn, ngủ và học.  Tuy nó “nghịch ngợm” như con nít vậy nhưng nó không làm tổn thương ai cũng như không ai buồn nhiều vì nó. Thỉnh thoảng, số 1 bị nó làm cho te tua không biết xử trí sao mới giận nó chút ít. Thế mà, thời gian trôi qua, cùng với cách huấn luyện trong Nhà Ứng Sinh, nó đã trở thành một con người khác hẳn. Nó không còn bộp chộp, không còn “tự nhiên”, không còn ngây ngô nữa. Nó đã “lớn” hơn, chín chắn hơn, biết suy nghĩ nhiều hơn trước khi hành động. Và quan trọng hơn tất cả, nó nhận ra rằng nó đã biết “yêu” người khác nhiều hơn…
Nó yêu người khác qua việc tông đồ, qua bổn phận hằng ngày, qua những người bạn nó tiếp xúc ở trường và qua những anh em trong cộng đoàn. Biểu hiện của điều đó là việc nó thức dậy đúng giờ hơn, tham dự Thánh lễ đều đặn hơn, giữ chương trình sống tốt hơn và đi học nhiều hơn. Nó cũng biết hỏi thăm anh nó khi anh nó bị ốm, nó còn phụ anh nó khi anh nó làm cơm không kịp, hay như nó chịu ngồi hàng giờ lục đục trên phòng đồ chỉ để…làm cái móc treo ảnh. Nó còn làm nhiều việc nữa, những việc mà trước đây không bao giờ tôi thấy nó làm.
Có lần, trong lúc đi tông đồ cùng nó, nó đột ngột hỏi tôi:
·        Anh thấy em dạo này có thay đổi gì không?
·        Không em. – Tôi trả lời một cách bâng quơ sau vài giây suy nghĩ. Nó có vẻ thất vọng nhưng nó đã kịp tự trấn an chính nó.
Một thời gian sau nó lại hỏi tôi như vậy. Và tôi bảo nó là để tôi suy nghĩ đã.

Bẵng đi một thời gian, giờ đây, bị ấn tượng mạnh bởi hình ảnh một chàng trai cao lêu nghêu với giọng hát trầm buồn đang thả hồn theo những giọt mưa, tôi sực nhớ tới câu hỏi ấy và ngồi ghi lại cảm xúc về nó như một câu trả lời muộn màng cho nó. Thật sự, nó có nhiều thay đổi và sự thay đổi của nó lúc nào cũng hai mặt. Một mặt giúp nó trở thành một người đàn ông đúng nghĩa, trưởng thành và ích lợi. Mặt khác, điều đó khiến nó mất đi sự đơn sơ và thanh thản, vốn là những thứ thích hợp với nó. Nhưng trên con đường nó đã chọn, thì sự thay đổi của nó là thích hợp và cần thiết. Nó không thể sống ơn gọi của mình theo tình cảm mà phải lí trí nhiều hơn, đặc biệt là Dòng mà nó đang tìm hiểu. Nó không thể là đứa “con nít” mãi. Nó phải trưởng thành, phải biết tự lập, biết nhận định kĩ càng trước khi hành động. Nó phải biết rằng nó là ai, sứ mạng ở trần gian này của nó là gì và làm thế nào để nó có thể chu toàn sứ mạng ấy cách trọn vẹn. Khi đã ý thức được như vậy, nó sẽ nhận ra ý Chúa muốn nơi nó. Và lúc đó, nó mới hoàn toàn tự do, nhỏ bé và bình an. Cố lên nó nhé!
Hoa Vô Thường

Bạn đồng hành


Đối với tôi, đời tu không phải là mục đích sống nhưng là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Vì thế, giống như bao con đường khác, đời tu cũng là một hành trình. Nơi đó, có tình yêu và sự bình an, có niềm vui và sự tha thứ; nhưng cũng có ích kỷ và mâu thuẫn, ganh tị và chia rẽ, v.v. Nhưng dẫu sao, tôi vẫn thấy lòng mình bình an. Vì trong đời tu, tôi có một nguồn động lực rất lớn, đó chính là tình bạn.
    Quả thật, cuộc sống mà không có bạn cũng giống như con thuyền không có bến, chẳng biết đến hạnh phúc là gì. Vì hạnh phúc của con thuyền là sau bao ngày lênh đênh trên biển cả được quay về bến để neo đậu và nghỉ ngơi. Cuộc đời mà không có bạn chẳng khác chi như dòng sông không có nước, nó khô khan và trơ trọi vì chẳng còn ai đến tắm trên dòng sông và cũng chẳng có sinh vật nào lui tới với nó nữa. Nhưng thuyền không chọn bến để neo cũng như dòng nước không chọn con sông để chảy. Chúng phó mặc cho sự sắp xếp của Tạo Hóa. Tình bạn cũng vậy, không ai có thể ép ai làm bạn của ai được. Tình bạn cần tự do vì nó là một ân huệ. Tự do đó thể hiện qua lòng tin tưởng người khác. Tôi không tin người không phải vì người không đáng tin nhưng lòng tin tưởng là một cái gì đó rất thiêng liêng. Tôi chỉ có thể vun trồng cho lòng tin đó chứ không tạo ra lòng tin. Dẫu cho tình bạn là một ân ban và cần có tự do nhưng tôi có thể tự hỏi mình rằng: “Tôi có thể làm gì để tình bạn được lớn lên?” Nghe có vẻ khó nhưng bởi vì nền tảng của tình bạn là tình yêu nên để nó lớn lên, tôi phải biết yêu. Và tình yêu luôn có chút hương chiếm giữ và ghen tương nên cũng cần phải loại bỏ những hương vị ấy ra khỏi tình bạn. Đồng thời, tình bạn cũng đòi hỏi sự kiên trì và nhẫn nại như bến đò vẫn hằng chờ mong cái ngày cánh buồm chuyển bánh quay về. Cũng cần có sự chịu đựng và hy sinh như con sông sẵn sàng để cho dòng nước trôi qua và bào mòn lòng sông.
    Tình bạn tuy cần thiết nhưng phải có điểm dừng để ra đi. Thuyền phải rời bến mà đi nếu không sẽ không còn là thuyền nữa mà chỉ là một đống phế thải. Dòng nước phải chảy qua con sông chứ nếu ở lại thì con sông đâu còn là con sông nữa, nó chỉ là cái hồ mà thôi. Hay như một con tàu có nhiều sân ga nhưng chỉ có một đường ray. Ở mỗi sân ga, con tàu chỉ dừng lại một chút nhưng đường ray thì con tàu sẽ theo mãi. Không có sân ga, con tàu vẫn chuyển bánh nhưng cô đơn và mỏi mệt, con tàu không hạnh phúc. Không có đường ray, con tàu chỉ là một đống sắt vụn và chết dần chết mòn theo năm tháng. Tình bạn cũng thế. Tôi và bạn quen biết rồi thân nhau, yêu thương nhau nhưng rồi phải xa nhau để đến với người khác nữa. Tôi và bạn không thuộc về nhau nhưng thuộc về Đức Ki-tô. Tôi đi qua bạn, bạn cũng đi qua tôi như một sân ga cho con tàu dừng lại nghỉ ngơi rồi cũng phải tiếp tục lăn bánh để đến nơi cần phải đến. Dù lòng người có bịn rịn hay oán trách vì chia ly thì khi tiếng còi vang lên, con tàu vẫn phải đi vì đó là mục đích mà nó được tạo nên. Không thể dừng lại mãi ở một người nào đó nhưng phải can đảm từ bỏ để lên đường. Sẽ có nhiều đớn đau và khổ sở khi phải từ bỏ. Nhưng bạn và tôi như hai bờ của một đường ray. Chúng ta song hành chứ không đi chung trên một con đường. Vì khi đi chung thì chúng ta không còn là đường ray nữa. Nên dù không muốn tôi và bạn vẫn cứ phải cất bước ra đi một mình mà thôi.
    Lạy Chúa, con phải chấp nhận một thực tại là chỉ có một con đường cho riêng con đến với Chúa mà thôi, không ai đi chung với con cũng không ai đi thay cho con được. Nhưng đi một mình thì con sợ lắm. Con sợ đường đời có lắm nỗi gian truân vất vả. Con sợ phải xa bạn hữu như con tàu rời ga mà đi. Con sợ cô đơn, sợ thất vọng, sợ vấp ngã…và bao nỗi sợ khác nữa. Xin Chúa hãy làm bạn với con và đồng hành cùng con trên hành trình ơn gọi của mình. Amen.
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Chút kinh nghiệm cho bạn và cho tôi



Tròn tám tháng kể từ ngày tôi trở thành thành viên của Nhà Ứng Sinh Dòng Tên Việt Nam, tôi được Ban Giám Đốc sai đến hai điểm tông đồ để phục vụ các bệnh nhân. Ở mỗi nơi, tôi đều có một trải nghiệm riêng nhưng chung một dòng cảm xúc.
     Điểm đầu tiên mà tôi được sai đến là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Ở đây, tôi cùng với một vài anh em phụ giúp các sơ nấu cháo và phát cháo cho bệnh nhân. Công việc tuy đơn giản nhưng cũng có những khó khăn nhất định của nó. Bởi một phần do chưa quen với công việc, một phần do còn nhút nhát và do tôi chưa thực sự yên mến việc tông đồ. Tuy vậy, dưới sự hướng dẫn tận tình của các sơ và các anh em, tôi cũng dần vượt qua được những khó khăn ấy.
     Điểm tông đồ thứ hai mà tôi được phục vụ là Bệnh viện Ung Bướu. Công việc của tôi là phụ các cô phát thức ăn cho các bệnh nhân và chuyện trò với họ. Phát đồ ăn thì không thành vấn đề nhưng trò chuyện với họ lại là một trở ngại rất lớn đối với tôi. Biết vậy, tôi đã nhiệt thành cộng tác với các sơ, các cô và các anh em khi họ giúp đỡ, nên giờ tôi đã tự tin hơn khi tiếp xúc và tâm sự với bệnh nhân.
     Qua hai lần đi tông đồ như vậy, tôi thấy mình còn nhiều thiếu sót và cần phải cố gắng hơn nữa, tuy nhiên, như một ơn an ủi mà Chúa muốn gửi đến tôi, tôi thấy mình đã học được nhiều điều từ những lần phục vụ bệnh nhân ở đây.
     Kinh nghiệm đầu tiên mà tôi nhận được sau hai lần đi tông đồ chính là tinh thần và thái độ của người làm tông đồ chứ không phải việc làm của họ. Khi đi tông đồ, tôi luôn tự vấn mình rằng : “Tôi phục vụ các bệnh nhân vì điều gì? Vì tôi hay vì Chúa?”. Với tinh thần của Dòng, tôi xác tín với bản thân một điều: “ Tất cả cho vinh danh Thiên Chúa hơn”. Chính nhờ những suy nghĩ đó nên tôi dần thay đổi thái độ của mình khi đi tông đồ. Tôi không còn đến với những điểm tông đồ bằng tinh thần trách nhiệm nữa mà bằng tình yêu phục vụ. Tôi cũng không còn khó chịu và buồn bã khi mình không được làm những điều mình thích hay mình muốn, mà thay vào đó, tôi tập làm những việc nhỏ bé hơn với tâm tình đơn sơ hơn. Bởi lẽ, tôi biết rằng dù mình có làm được những việc lớn lao đi chăng nữa nhưng làm với một con tim trống rỗng thì những công việc ấy cũng không mang lại hoa trái cho bản thân tôi mà đôi khi nó còn phản tác dụng. Từ đó, tôi đúc kết cho một kinh nghiệm nho nhỏ khi đi tông đồ: “Một việc làm dù nhỏ nhưng nếu được thực thi với một tình yêu to lớn thì nó sẽ trở thành một việc vĩ đại”.
      Bài học thứ hai mà tôi cảm nghiệm được chính là cách thức mà tôi trao tình yêu của tôi cho họ. Quả thật, rất nhiều lần tôi cảm thấy thất vọng vô cùng khi việc tốt tôi làm cho họ nhưng lại không được đón nhận. Những lúc như vậy tôi cảm thấy rất tủi thân và hoang mang. Tôi không biết mình đã làm sai điều gì? Không biết do tôi hay do họ? Những câu hỏi đại khái như vậy cứ vây quanh tôi làm tôi cảm thấy rất khổ tâm và đôi khi chán nản. Nhiều lúc tôi như muốn nổi loạn, muốn xin Ban Giám Đốc cho đi nơi khác. Nhưng tôi chỉ nghĩ vậy thôi chứ chưa bao giờ trình bày với bề trên. Rồi một hôm, khi đang phát cháo cho bệnh nhân, tôi vô tình nghe được cuộc trò chuyện giữa hai bà cháu. Bà cụ dạy cháu mình về cách cho người khác một thứ gì đó, dù là của bố thí. Bà dùng câu nói của cổ nhân để dạy cháu: “Cách cho trọng hơn của cho”. Câu nói ấy cứ ám ảnh tôi mãi trong ngày hôm đó. Nó làm tôi suy nghĩ và cảm thấy cần phải đưa ngay câu nói này vào giờ cầu nguyện. Thật hạnh phúc biết bao khi Chúa đã giúp tôi hiểu ra điều mà tôi đang thắc mắc. Tôi cảm thấy xấu hổ và sai lầm khi khám phá ra rằng chẳng ai làm tôi tủi thân hay hoang mang cả, cũng chẳng do lỗi của ai hết. Tôi đã tự làm khổ chính mình khi luôn cho rằng: họ cần tôi và những gì tôi cho thì họ phải nhận. Cứ thế, dần dần tôi tự biến mình thành kẻ ban phát, hay đúng hơn là tôi đang làm thay công việc của Chúa Thánh Thần. Để rồi, khi ai đó từ chối tôi điều gì, thì tôi lại cho rằng họ là kẻ không biết điều và tôi trút sự bực tức, hằn học của mình lên họ, mà tôi nào biết rằng tôi đang phạm đến Chúa. Cũng may, nhờ cuộc Linh thao năm mà tôi đã nhận ra lầm lỗi của mình. Và giờ, tôi biết mình cần phải làm gì và làm như thế nào. Tôi đem câu nói ấy áp dụng vào việc tông đồ của mình, để rồi, tôi không còn cảm thấy xa lạ với họ nữa mà ngày càng cảm thấy yêu họ hơn. Những kinh nghiệm tông đồ và kinh nghiệm cầu nguyện đã làm hình thành nên một quan điểm, rằng: dù tôi chỉ làm cho họ một việc nhỏ, dù tôi chỉ cho họ một thứ gì đó không đáng giá nhưng tôi cho họ vì sự chân thành đi kèm với nụ cười thật tươi cũng đủ để làm họ ấm lòng.
      Và điều cuối cùng mà tôi nhận được từ những lần đi tông đồ như vậy chính là việc tôi đã nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Thật sự, tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về sự hiện diện của Đức Kitô nơi tha nhân. Đại loại như: Đức Kitô hiện diện nơi những người bé nhỏ, cô thế cô thân; nơi những em bé lang thang đầu đường xó chợ; nơi những người già cả neo đơn; nơi những kẻ tâm thần, hút chích, nghiện ngập; nơi những bệnh nhân…và những nơi khác nữa. Nhưng tôi chỉ dừng lại ở việc nghe mà thôi, hoàn toàn không cảm nghiệm được gì. Chính nhờ những lần được phục vụ ở đây, tôi mới thật sự nhận ra được lời mời gọi của Đức Kitô nơi gương mặt đầy khắc khổ và đau đớn của bệnh nhân. Và mỗi lần nhìn vào mắt họ, tôi như nghe thấy một tiếng gọi từ sâu thẳm nơi tâm hồn: “Thầy đây!”. Vâng, chỉ hai tiếng đơn giản vậy thôi nhưng lại làm tôi cảm thấy cần phải đặt lại mình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, để tìm ra cho mình một thứ gì đó có thể lấp đầy những khoảng trống nơi tâm hồn khô khan này. “Thầy đây!”, chỉ có hai tiếng thôi nhưng nghe thật gần gũi và thân thương, cứ ngỡ như ai đó đang trấn an mình vậy. Đúng thế, có ai đó đang thì thầm bên tai tôi, nhắc nhở tôi về sự hiện diện của Chúa nơi họ. Và đây là điểm mấu chốt giúp tôi nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Ngài không cần tôi phải làm những việc lớn lao, không cần tôi phải đi đến những vùng đất xa xôi để phục vụ tha nhân, mà ngay trong cộng đoàn này, tôi được mời gọi trở nên tông đồ của Chúa để phục vụ chính anh em mình, những người thật gần gũi và hiện diện cùng tôi mỗi ngày.
     Mặc dù ơn Chúa trên tôi không thiếu, nhưng tôi vẫn luôn thao thức làm sao để “xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2b). Với chút kinh nghiệm nhỏ nhoi học được từ những lần đi phục vụ tại bệnh viện, tôi muốn gửi đến anh em chút tâm tình, chút sẻ chia để cùng nhau ra đi “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”(Mc 16:15) theo cách thế của dòng Tên, vì“lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10:2a).

Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt