Nơi chia sẻ những điều thú vị...

Bài kết thúc môn Giáo lý

Câu hỏi: Bạn sẽ khởi sự từ đâu để nói cho con người của thời đại hôm nay hiểu và dễ dàng đón nhận đức tin Công giáo của chúng ta? Tại sao?

Đối thoại Phaedo và Linh tượng thuyết

Tóm lại, đối thoại Phaedo có tương quan rõ nét với thuyết linh tượng của Plato. Tuy nhiên, có một vấn đề mà người viết còn thắc mắc và muốn suy tư thêm. Linh hồn tuy bất tử và vĩnh cửu nhưng liệu nó có bất biến không? Nếu bất biến thì phải giải thích thế nào về thuyết hồi tưởng. Nếu không bất biến thì tri thức mà lý trí - một chức năng của linh hồn - đạt được, liệu có chắc chắn như Plato mong muốn?

Vấn đề Vô minh trong Phật học nguyên thủy và triết hệ Advaita Vedanta

Đa phần những bộ phim ấy đều có chung một mô tuýp: khởi đầu là cảnh thuận buồm xuôi gió trong tình yêu của nam nữ chính; tiếp đến là những tình tiết trắc trở, gập ghềnh xảy đến với họ, mà nguyên nhân là do những hiểu lầm của chính họ hoặc do những mối thù truyền kiếp của các thế hệ trước; sau cùng, khi những hiểu lầm ấy được hóa giải, hai nhân vật chính sẽ được ở bên nhau trọn đời, trừ một vài trường hợp có kết thúc buồn.

Sách mới: Phó Thác Hoàn Toàn - Những Lá Thư Gửi Các Chủng Sinh

“Cha Najim đã viết một bộ sưu tập những lá thư rất hay theo truyền thống Lectio Divina (Gặm nhấm Thiên Thư). Các chủng sinh, những người dành thời gian để suy nghĩ trong cầu nguyện những lời của ngài sẽ tiến xa hơn trên con đường phân định ơn gọi linh mục.”

Sách mới: Lời Giới thiệu

Các khía cạnh quan trọng nhất của tiến trình biện phân là cầu nguyện và suy gẫm thiêng liêng. Qua sự hiệp thông cá vị với Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được chúng ta là ai và chúng ta đang được kêu gọi để làm gì trong cuộc sống này. Việc cầu nguyện đúng nghĩa đòi hỏi thời gian và sự tập trung.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng đoàn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng đoàn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

Bạn đồng hành


Đối với tôi, đời tu không phải là mục đích sống nhưng là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Vì thế, giống như bao con đường khác, đời tu cũng là một hành trình. Nơi đó, có tình yêu và sự bình an, có niềm vui và sự tha thứ; nhưng cũng có ích kỷ và mâu thuẫn, ganh tị và chia rẽ, v.v. Nhưng dẫu sao, tôi vẫn thấy lòng mình bình an. Vì trong đời tu, tôi có một nguồn động lực rất lớn, đó chính là tình bạn.
    Quả thật, cuộc sống mà không có bạn cũng giống như con thuyền không có bến, chẳng biết đến hạnh phúc là gì. Vì hạnh phúc của con thuyền là sau bao ngày lênh đênh trên biển cả được quay về bến để neo đậu và nghỉ ngơi. Cuộc đời mà không có bạn chẳng khác chi như dòng sông không có nước, nó khô khan và trơ trọi vì chẳng còn ai đến tắm trên dòng sông và cũng chẳng có sinh vật nào lui tới với nó nữa. Nhưng thuyền không chọn bến để neo cũng như dòng nước không chọn con sông để chảy. Chúng phó mặc cho sự sắp xếp của Tạo Hóa. Tình bạn cũng vậy, không ai có thể ép ai làm bạn của ai được. Tình bạn cần tự do vì nó là một ân huệ. Tự do đó thể hiện qua lòng tin tưởng người khác. Tôi không tin người không phải vì người không đáng tin nhưng lòng tin tưởng là một cái gì đó rất thiêng liêng. Tôi chỉ có thể vun trồng cho lòng tin đó chứ không tạo ra lòng tin. Dẫu cho tình bạn là một ân ban và cần có tự do nhưng tôi có thể tự hỏi mình rằng: “Tôi có thể làm gì để tình bạn được lớn lên?” Nghe có vẻ khó nhưng bởi vì nền tảng của tình bạn là tình yêu nên để nó lớn lên, tôi phải biết yêu. Và tình yêu luôn có chút hương chiếm giữ và ghen tương nên cũng cần phải loại bỏ những hương vị ấy ra khỏi tình bạn. Đồng thời, tình bạn cũng đòi hỏi sự kiên trì và nhẫn nại như bến đò vẫn hằng chờ mong cái ngày cánh buồm chuyển bánh quay về. Cũng cần có sự chịu đựng và hy sinh như con sông sẵn sàng để cho dòng nước trôi qua và bào mòn lòng sông.
    Tình bạn tuy cần thiết nhưng phải có điểm dừng để ra đi. Thuyền phải rời bến mà đi nếu không sẽ không còn là thuyền nữa mà chỉ là một đống phế thải. Dòng nước phải chảy qua con sông chứ nếu ở lại thì con sông đâu còn là con sông nữa, nó chỉ là cái hồ mà thôi. Hay như một con tàu có nhiều sân ga nhưng chỉ có một đường ray. Ở mỗi sân ga, con tàu chỉ dừng lại một chút nhưng đường ray thì con tàu sẽ theo mãi. Không có sân ga, con tàu vẫn chuyển bánh nhưng cô đơn và mỏi mệt, con tàu không hạnh phúc. Không có đường ray, con tàu chỉ là một đống sắt vụn và chết dần chết mòn theo năm tháng. Tình bạn cũng thế. Tôi và bạn quen biết rồi thân nhau, yêu thương nhau nhưng rồi phải xa nhau để đến với người khác nữa. Tôi và bạn không thuộc về nhau nhưng thuộc về Đức Ki-tô. Tôi đi qua bạn, bạn cũng đi qua tôi như một sân ga cho con tàu dừng lại nghỉ ngơi rồi cũng phải tiếp tục lăn bánh để đến nơi cần phải đến. Dù lòng người có bịn rịn hay oán trách vì chia ly thì khi tiếng còi vang lên, con tàu vẫn phải đi vì đó là mục đích mà nó được tạo nên. Không thể dừng lại mãi ở một người nào đó nhưng phải can đảm từ bỏ để lên đường. Sẽ có nhiều đớn đau và khổ sở khi phải từ bỏ. Nhưng bạn và tôi như hai bờ của một đường ray. Chúng ta song hành chứ không đi chung trên một con đường. Vì khi đi chung thì chúng ta không còn là đường ray nữa. Nên dù không muốn tôi và bạn vẫn cứ phải cất bước ra đi một mình mà thôi.
    Lạy Chúa, con phải chấp nhận một thực tại là chỉ có một con đường cho riêng con đến với Chúa mà thôi, không ai đi chung với con cũng không ai đi thay cho con được. Nhưng đi một mình thì con sợ lắm. Con sợ đường đời có lắm nỗi gian truân vất vả. Con sợ phải xa bạn hữu như con tàu rời ga mà đi. Con sợ cô đơn, sợ thất vọng, sợ vấp ngã…và bao nỗi sợ khác nữa. Xin Chúa hãy làm bạn với con và đồng hành cùng con trên hành trình ơn gọi của mình. Amen.
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Ba lời khuyên Phúc Âm để thăng tiến cộng đoàn

"Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông" (Lc 17,21). Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người Pharisêu trong dụ ngôn mười người phong hủi. Lời rao giảng năm nào của Chúa Giêsu vẫn còn vọng vang mãi cho đến hôm nay. Lời đó mời gọi chúng ta cùng chung tay góp sức xây dựng góc thiên đường nơi trần thế. Nói cách khác, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ý thức rằng Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, nơi Chủng viện Qui Nhơn này. Thế nhưng, hành trình xây dựng góc thiên đường ấy gặp không ít chông gai đến từ nhiều phía khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Có lẽ vì biết trước những trở ngại hôm nay mà hôm xưa Chúa Giêsu đã đưa ra những giải pháp hữu hiệu để thăng tiến cộng đoàn đang sống thành góc thiên đường nơi chủng viện. Giải pháp ấy chính là ba lời khuyên phúc âm, mà theo truyền thống Tôma Aquinô, chúng được sắp xếp như sau: khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.
Khiết tịnh
Nhắc đến khiết tịnh, nhiều người nghĩ ngay đến vấn đề quan hệ tình dục hay chí ít là nghĩ đến chuyện sống độc thân nơi các linh mục và tu sĩ. Điều đó đúng. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa bóng bẩy hơn một chút, chúng ta nhận ra rằng khiết tịnh còn là làm sao để có được tư tưởng trong suốt, lời nói trong sáng và hành động trong sạch. Cả ba điều ấy tuy đơn giản nhưng theo những cách khác nhau, chúng đủ sức giúp thăng tiến đời sống cộng đoàn thành góc thiên đường nơi chủng viện.
Trong suốt tư tưởng bắt đầu từ việc trong suốt hóa động cơ của hành động. Quả thật, động cơ của hành động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chung vì nó chi phối hầu hết mọi hành động của đương sự. Chẳng hạn như, khi bàn đến việc xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện, nếu chúng ta góp ý kiến với một động cơ không mấy trong suốt, như khó chịu hay bõ tức, chúng ta sẽ nhận lấy bảng kết quả không khả quan. Tương tự như vậy, động cơ tu trì góp một phần lớn vào việc duy trì sự ổn định của cộng đoàn. Câu trả lời cho câu hỏi đi tu vì điều gì sẽ là một trong những đáp án cho tình trạng của chính cộng đoàn ấy. Khi ai nấy đều có một động cơ tu trì trong suốt, chắc hẳn cộng đoàn sẽ thăng tiến vì mọi thành viên đều đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó sẽ dẫn đến sự hòa hợp trong công việc chung vì ai cũng đều hướng đến những lý tưởng tốt đẹp của đời tu. Động cơ trong sáng khiến chúng ta không sợ hãi, không nín thở qua sông nhưng can đảm sống trung thực, không lấp liếm hay lén lút làm chuyện này chuyện kia sau lưng bề trên và anh em. Trong suốt tư tưởng còn thể hiện qua việc nghĩ đúng về anh em. Khi nghĩ đúng về anh em chúng ta sẽ đánh giá đúng hành động của họ. Từ đó, chúng ta sẽ dễ thông cảm hơn khi xảy ra những trúc trắc trục trặc trong cộng đoàn. Nghĩ đúng về anh em là bước đầu và căn bản để nghĩ tốt về họ. Do đó, chúng ta cần trong suốt tư tưởng để có cái nhìn khách quan và đúng đắn hầu thăng tiến cộng đoàn hơn.
Trong sáng lời nói là tránh nói hành nói xấu, nói lời hai ý và dán nhãn. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên các tín hữu ở Êphêsô: "Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, ... đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ..." (Ep 4,29.31).  Quả thật, trong đời sống cộng đoàn, lời nói có sức mạnh xây dựng nhưng cũng có sức mạnh phá đổ. Thứ nhất, những lời nói hành nói xấu hay những nhận xét không khách quan về người khác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định trong cộng đoàn. Thậm chí nó còn ảnh hưởng đến ơn thiên triệu của anh em. Vì thế, từ chỗ nghĩ tốt về anh em cộng với động cơ trong sáng của chúng ta khi trình bày với bề trên hay khi góp ý với chính đương sự, chúng ta dễ dàng nói những lời tốt đẹp, những lời mang tính xây dựng và làm ích cho người nghe như thánh Phaolô đã dạy. Nhờ đó, chúng ta sẽ tránh được việc nói cho đã miệng, cho thỏa mãn cái tôi trong khi không biết những lời nói của mình sẽ ảnh hưởng tới người khác như thế nào. Thứ hai, những lời hai ý dễ khiến cho người nói nghĩ rằng mình khôn ngoan, sâu sắc. Nhưng đối với những người nghe, họ cảm thấy phải đề phòng vì không biết người nói có ý đồ tốt hay xấu đối với mình. Vô hình chung, những lời ấy tạo ra sự nghi kỵ trong đời sống chung rồi dần dần dẫn đến chia rẽ. Dĩ nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng, đôi khi, những lời hai ý lại là duyên cớ gây nên những niềm vui nho nhỏ nơi cộng đoàn. Đó là khi nó được người nói thốt ra với sự chân thành và trong suốt. Thứ ba, dán nhãn cũng là một trong những hành động gây đổ vỡ cộng đoàn. Tuy có những nhãn dán rất dễ thương và dễ chịu khiến người được dán nhãn cảm thấy bằng lòng và dễ đón nhận nhưng cũng có những nhãn dán khiến người khó chịu và suốt đời vận vào họ và khiến họ không còn là chính họ nữa. Những nhãn dán hay những lời châm chọc, một khi được thốt ra nhiều lần, sẽ ám vào người khác, theo cùng một cách thức như tự kỷ ám thị. Như thế, để trong sáng lời nói, chúng ta cần hết sức tránh nói hành nói xấu, nói lời hai ý với dụng tâm xấu và dán những nhãn hiệu không cần thiết.
Trong sạch hành động là dám chịu trách nhiệm về việc mình làm và sẵn sàng dấn thân để làm nhiều hơn người khác khi cần thiết. Dám chịu trách nhiệm về việc mình làm là ngay thẳng trong việc làm, không trốn tránh trách nhiệm, chu toàn bổn phận của mình mà không phân bì với người này người kia. Đó còn là can đảm nhận lỗi khi vô tình hay hữu gây ra những thiệt về vật chất trong cộng đoàn. Sẵn sàng dấn thân để làm nhiều hơn người khác khi cần thiết là can đảm đón nhận những công việc có vẻ như bất công bằng giữa anh em với nhau. Đôi khi, phần công việc chúng ta nhận được nhiều hơn người này người kia không phải là do những bất công trong đời sống cộng đoàn, không phải do ỷ lớn hiếp bé, ma cũ bắt nạt ma mới mà là do khả năng của chúng ta trội hơn người khác nên được bề trên và anh em tín nhiệm. Không những thế, đây còn là cơ hội để chúng ta âm thầm hi sinh và dâng lên Chúa như của lễ riêng mình. Không hẳn làm việc bằng nhau sẽ mang lại bình yên cho cộng đoàn. Sự bất công hợp pháp đôi khi sẽ tạo ra tình liên đới. Quả thật, đời sống cộng đoàn sẽ 'êm' hơn nếu chúng ta biết chịu đựng chút thiệt thòi be bé như vậy.
Như thế, trong suốt tư tưởng, trong sáng lời nói và trong sạch hành động là ba việc làm cần thiết và khả thi để có thể góp phần thăng tiến cộng đoàn đang sống thành góc thiên đường đang ở giữa chúng ta.
Khó nghèo
Khi đề cập đến lời khuyên khó nghèo, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến một đời sống giản dị, thanh cao, thoát tục và không có nhiều của cải. Nghĩ vậy không có gì là sai cả. Thế nhưng, ngoài sự khó nghèo qua vẻ bề ngoài, chúng ta còn có thể nhận thấy rằng vẫn tồn tại sự khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Đây chính là những thực hành đơn giản để chúng ta góp phần xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện.
Khó nghèo trong tư tưởng nghĩa là suy nghĩ theo chiều hướng đơn giản hóa vấn đề để nhìn nhận những điểm đen tối trong đời sống cộng đoàn theo hướng nhẹ nhàng để ôn tồn giải quyết. Chẳng có cộng đoàn nào mà không có rắc rối. Tuy nhiên, cách nhìn nhận vấn đề và giải quyết chúng mới là điều đáng quan tâm. Đơn giản hóa vấn đề là một cách giải quyết. Nó có nghĩa là tránh suy nghĩ phức tạp khi không cần thiết. Có những chuyện thật nhỏ bé những vì muốn xé nó ra cho thật to để chứng minh rằng mình đúng, thì lại gây ra những tác hại nặng nề cho cộng đoàn. Mặt khác, khó nghèo trong tư tưởng còn là suy nghĩ có chọn lọc. chọn những suy nghĩ thật sự cần để giữ lại vì những điều không cần thiết cứ ở lại trong tư tưởng lâu ngày, nó sẽ vận vào cách chúng ta đánh giá người khác, theo quy tắc tự kỷ ám thị. Như thế, khó nghèo trong tư tưởng bao gồm việc đơn giản hóa vấn đề và suy nghĩ có chọn lọc.
Khó nghèo trong lời nói không có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ cách nghèo nàn hoặc không được sử dụng ngôn từ văn vẻ, bóng bẩy. Khó nghèo trong lời nói là cẩn ngôn và kiệm ngôn. Cẩn ngôn là nói năng cách cẩn thận. Chúng ta hãy nghe thánh Giacôbê tồng đồ luận bàn về cái lưỡi để hiểu được vì sao chúng ta phải cẩn ngôn. "Thưa anh em, đừng có nhiều người trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết rằng ... Cái lưỡi ... là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. Thật thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người" (Gc 3,3-9). Kiệm ngôn là nói năng tiết kiệm. Cổ nhân có câu "người năng nói năng lỗi". Trong đời sống cộng đoàn, hầu hết những rắc rối xảy ra đều xuất phần lớn từ lời ăn tiếng nói. Đôi khi, vì hơn thua, vì tức nhau tiếng gáy hay vì muốn cho lời nói của mình có sức thuyết phục, người ta không ngại nói những lời sai sự thật hoặc nói một nửa sự thật để đánh lận con đen, hầu đạt được mục đích của mình. Do đó, kiệm ngôn là cần thiết để duy trì sự ổn định của cộng đoàn. Một người vừa cẩn ngôn vừa kiệm ngôn là người biết tự chủ và có trách nhiệm với lời nói của mình. Như vậy, khó nghèo trong lời nói bằng sự cẩn ngôn và kiệm ngôn sẽ góp phần thăng tiến cộng đoàn mỗi ngày một hơn.
Khó nghèo trong việc làm thể hiện qua lối sống giản dị, không đòi hỏi quá đáng những gì được dùng. Với lối sống giản dị, chúng ta không bị lệ thuộc quá mức vào của cải vật chất cũng không bị nó kiềm kẹp. Sự khó nghèo khiến người ta dễ dàng hào phóng chứ không phóng ra từng hào như những người khư khư giữ lấy của cải cho mình. Giản dị trong cách ăn mặc sẽ không làm cớ cho anh em vấp phạm, cũng không gây ra phiền hà cho nhau. Trước khi vào chủng viện mỗi anh em có một mức sống khác nhau. Người thì dư dả để khoác lên mình những bộ cánh đắt tiền, những đôi giày hàng hiệu hay loại nước hoa xa xỉ. Nhưng cũng có người không may mắn được như thế. Họ lớn lên trong cảnh bần hàn, chưa bao giờ được trải nghiệm những thứ xa xỉ phẩm. Sống chung với nhau đòi buộc mỗi người cố gắng tuân theo một mức sống chung. Tất nhiên, không ai bắt buộc chúng ta phải đoạn tuyệt hoàn toàn với những gì chúng ta đã có trước đây nhưng lối sống này mời gọi chúng ta sử dụng của cải vật chất phù hợp với môi trường và bậc sống của mình. Nghèo khó trong cách sống còn giúp chúng ta dễ cảm thông hơn với những người nghèo mà sau này chúng ta phục vụ.
Như thế, khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm giúp chúng ta tự do hơn trong cách tương quan với anh em hầu kiến tạo và duy trì không gian thánh thiện nơi cộng đoàn chúng ta đang sống. Đồng thời, khi đứng trước những biến cố trong đời sống cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng (Ep 4,26.27). Đó cũng là cách để chúng ta sống khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Vâng phục
Công đồng chung Vatican II tiếp bước học thuyết Tôma Aquinô khi sắp xếp sự vâng phục như là chóp đỉnh của các lời khuyên Phúc âm. Đây là nhân đức giúp chữa lành nguyên tội mà qua đó con người từ bỏ bản thân để quy phục Thiên Chúa. Trong đời sống cộng đoàn, nếu mọi thành viên đều biết kính trên nhường và làm tôi một mình Thiên Chúa, thì cộng đoàn ấy sẽ triển nở và hạnh phúc. Như thế, để luyện tập nhân đức này, chúng ta cần phải biết mình, từ bỏ ý riêng và tôn trọng người khác.
Biết mình là xác đất vật hèn để không lên mặt kiêu căng với anh em. Biết rằng những gì mình có là Chúa cho để trân trọng và không coi thường người khác. Biết mình sống ở đây là do bao người góp công góp sức nuôi mình để sống biết ơn. Biết mình còn thể hiện qua việc khiêm tốn đón nhận những lời khen chân thành từ người khác. Quả thật, không thể nói hết những gì mình cần phải biết về chính mình nhưng chỉ đề cập đến những gì cần thiết và có liên hệ đến các mối tương giao trong cộng đoàn. Người biết mình là người sẵn sàng 'xuống nước' để cộng đoàn được trong ấm ngoài êm. Có một câu ca dao, tuy đề cập đến tình nghĩa vợ chồng, nhưng thiết nghĩ, nó có thể áp dụng trong đời sống cộng đoàn. "Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê". Quả thế, biết mình giúp chúng ta dễ dàng hạ mình.
Bỏ ý riêng là để ý chung được thực hiện. Ý chung đó thể hiện qua quyết định của bề trên và những người được bề trên giao phó cho trách nhiệm này kia trong cộng đoàn. Ai cũng muốn làm theo ý mình thì rồi cộng đoàn sẽ đi về đâu. Một cộng đoàn hay một tổ chức, muốn duy trì sự ổn định, luôn có những luật lệ. Khi mọi thành viên đều tuân thủ luật lệ cũng như người lãnh đạo, ắt cộng đoàn sẽ triển nở. Bằng không, chín người mười ý, không ai chịu ai, ắt cộng đoàn sẽ đi từ đổ vỡ này đến đổ vỡ khác. Ngoài việc phải vâng lời bề trên và những người đại diện hợp pháp của bề trên, thiết nghĩ, sự kính trọng những người lớn tuổi hay những người có thâm niên hơn trong cộng đoàn cũng là phương thế giúp từ bỏ ý riêng cách hữu hiệu. Người Việt Nam có câu 'kính lão đắc thọ' là vậy. Tuy họ không phải là bề trên nhưng với kinh nghiệm và sự từng trãi, họ xứng đáng nhận được sự kính trọng của những người đi sau. Thế nên, khiêm nhường và tôn trọng họ là điều cần thiết. Phần họ, đừng bao giờ nghĩ mình là 'lớn''la lối thóa mạ' hay buông những lời 'chua cay gắt gỏng'. Bỏ ý riêng là cách vâng phục tốt nhất.
Tôn trọng người khác là ý thức mình và người khác có sự khác biệt và cũng quan trọng như nhau. Cả hai đều đặc biệt và duy nhất. Thế nên, thay vì bắt người khác phải suy nghĩ giống mình, làm cùng một cách như mình, chúng ta hãy cho mỗi người một trời tự do để họ tùy nghi sáng tạo theo khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Sự tôn trọng người khác không chỉ thể hiện nơi những người ngang hàng với nhau mà còn thể hiện trong tương giữa bề trên và bề dưới, giữa nhà huấn luyện và người thụ huấn. Bởi lẽ, chúng ta dang sống trong một thời đại biến đổi khôn lường. sự thay đổi nhanh chóng của các phương tiện truyền thông và công nghệ khiến cho khoảng cách giữa các ý thức hệ mau chóng tăng lên. Chỉ cần sinh ra cách nhau vài năm là đủ để có những suy nghĩ và tư tưởng khác nhau. Cách làm việc, thế giới quan, cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề cũng khác nhau dẫn đến sự khác nhau về cách xử lý vấn đề. Thế nên, dù là tương quan giữa bề ngang với nhau hay giữa bề trên với bề dưới, đều rất cần đến sự tôn trọng người khác.
Tóm lại, từ hai ngàn năm nay, giáo hội luôn nỗ lực xây dựng góc thiên đường nơi thế gian. Giáo hội lên tiếng bảo vệ nền luân lý đang dần bị tụt dốc, thậm chí ở những nơi mà trước đây là thủ phủ của giáo hội. Giáo hội bảo vệ phẩm giá con người; bênh vực cô nhi quả phụ; đòi quyền lợi cho những di dân; giáo hội nối lại nhịp cầu đại kết; mở ra những cuộc đối thoại liên tôn để mưu cầu hòa bình; v.v... Trong mọi khả năng và cách thế, giáo hội nỗ lực xây dựng góc thiên đường nơi thế gian. Phần chúng ta, dù chỉ là những chủng sinh bé nhỏ của Chúa, dù đang đang bị giới hạn về nhiều mặt, nhưng chúng ta cũng được mời gọi cộng tác vào công cuộc của giáo hội bằng việc xây dựng góc thiên đường nơi Chủng viện Qui Nhơn. Qua ba lời khuyên Phúc Âm - khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục - chúng ta có trong tay những chất liệu cần thiết để biến nơi chúng ta đang sống thành thiên đường. Chúng ta sống khiết tịnh qua việc trong suốt hóa tư tưởng, trong sáng hóa lời nói và trong sạch hóa hành động. Chúng ta sống khó nghèo từ trong tư tưởng, lời nói cho đến hành động qua việc đơn giản hóa vấn đề và suy nghĩ có chọn lọc; không nói hành nói xấu, không nói lời hai ý, không dán nhãn; và sống giản dị. Chúng ta sống vâng phục qua việc tìm biết mình, từ bỏ ý riêng và tôn trọng người khác. Hơn tất cả, chúng ta liên lỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho mọi ơn cần thiết để can đảm xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Chút kinh nghiệm cho bạn và cho tôi



Tròn tám tháng kể từ ngày tôi trở thành thành viên của Nhà Ứng Sinh Dòng Tên Việt Nam, tôi được Ban Giám Đốc sai đến hai điểm tông đồ để phục vụ các bệnh nhân. Ở mỗi nơi, tôi đều có một trải nghiệm riêng nhưng chung một dòng cảm xúc.
     Điểm đầu tiên mà tôi được sai đến là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Ở đây, tôi cùng với một vài anh em phụ giúp các sơ nấu cháo và phát cháo cho bệnh nhân. Công việc tuy đơn giản nhưng cũng có những khó khăn nhất định của nó. Bởi một phần do chưa quen với công việc, một phần do còn nhút nhát và do tôi chưa thực sự yên mến việc tông đồ. Tuy vậy, dưới sự hướng dẫn tận tình của các sơ và các anh em, tôi cũng dần vượt qua được những khó khăn ấy.
     Điểm tông đồ thứ hai mà tôi được phục vụ là Bệnh viện Ung Bướu. Công việc của tôi là phụ các cô phát thức ăn cho các bệnh nhân và chuyện trò với họ. Phát đồ ăn thì không thành vấn đề nhưng trò chuyện với họ lại là một trở ngại rất lớn đối với tôi. Biết vậy, tôi đã nhiệt thành cộng tác với các sơ, các cô và các anh em khi họ giúp đỡ, nên giờ tôi đã tự tin hơn khi tiếp xúc và tâm sự với bệnh nhân.
     Qua hai lần đi tông đồ như vậy, tôi thấy mình còn nhiều thiếu sót và cần phải cố gắng hơn nữa, tuy nhiên, như một ơn an ủi mà Chúa muốn gửi đến tôi, tôi thấy mình đã học được nhiều điều từ những lần phục vụ bệnh nhân ở đây.
     Kinh nghiệm đầu tiên mà tôi nhận được sau hai lần đi tông đồ chính là tinh thần và thái độ của người làm tông đồ chứ không phải việc làm của họ. Khi đi tông đồ, tôi luôn tự vấn mình rằng : “Tôi phục vụ các bệnh nhân vì điều gì? Vì tôi hay vì Chúa?”. Với tinh thần của Dòng, tôi xác tín với bản thân một điều: “ Tất cả cho vinh danh Thiên Chúa hơn”. Chính nhờ những suy nghĩ đó nên tôi dần thay đổi thái độ của mình khi đi tông đồ. Tôi không còn đến với những điểm tông đồ bằng tinh thần trách nhiệm nữa mà bằng tình yêu phục vụ. Tôi cũng không còn khó chịu và buồn bã khi mình không được làm những điều mình thích hay mình muốn, mà thay vào đó, tôi tập làm những việc nhỏ bé hơn với tâm tình đơn sơ hơn. Bởi lẽ, tôi biết rằng dù mình có làm được những việc lớn lao đi chăng nữa nhưng làm với một con tim trống rỗng thì những công việc ấy cũng không mang lại hoa trái cho bản thân tôi mà đôi khi nó còn phản tác dụng. Từ đó, tôi đúc kết cho một kinh nghiệm nho nhỏ khi đi tông đồ: “Một việc làm dù nhỏ nhưng nếu được thực thi với một tình yêu to lớn thì nó sẽ trở thành một việc vĩ đại”.
      Bài học thứ hai mà tôi cảm nghiệm được chính là cách thức mà tôi trao tình yêu của tôi cho họ. Quả thật, rất nhiều lần tôi cảm thấy thất vọng vô cùng khi việc tốt tôi làm cho họ nhưng lại không được đón nhận. Những lúc như vậy tôi cảm thấy rất tủi thân và hoang mang. Tôi không biết mình đã làm sai điều gì? Không biết do tôi hay do họ? Những câu hỏi đại khái như vậy cứ vây quanh tôi làm tôi cảm thấy rất khổ tâm và đôi khi chán nản. Nhiều lúc tôi như muốn nổi loạn, muốn xin Ban Giám Đốc cho đi nơi khác. Nhưng tôi chỉ nghĩ vậy thôi chứ chưa bao giờ trình bày với bề trên. Rồi một hôm, khi đang phát cháo cho bệnh nhân, tôi vô tình nghe được cuộc trò chuyện giữa hai bà cháu. Bà cụ dạy cháu mình về cách cho người khác một thứ gì đó, dù là của bố thí. Bà dùng câu nói của cổ nhân để dạy cháu: “Cách cho trọng hơn của cho”. Câu nói ấy cứ ám ảnh tôi mãi trong ngày hôm đó. Nó làm tôi suy nghĩ và cảm thấy cần phải đưa ngay câu nói này vào giờ cầu nguyện. Thật hạnh phúc biết bao khi Chúa đã giúp tôi hiểu ra điều mà tôi đang thắc mắc. Tôi cảm thấy xấu hổ và sai lầm khi khám phá ra rằng chẳng ai làm tôi tủi thân hay hoang mang cả, cũng chẳng do lỗi của ai hết. Tôi đã tự làm khổ chính mình khi luôn cho rằng: họ cần tôi và những gì tôi cho thì họ phải nhận. Cứ thế, dần dần tôi tự biến mình thành kẻ ban phát, hay đúng hơn là tôi đang làm thay công việc của Chúa Thánh Thần. Để rồi, khi ai đó từ chối tôi điều gì, thì tôi lại cho rằng họ là kẻ không biết điều và tôi trút sự bực tức, hằn học của mình lên họ, mà tôi nào biết rằng tôi đang phạm đến Chúa. Cũng may, nhờ cuộc Linh thao năm mà tôi đã nhận ra lầm lỗi của mình. Và giờ, tôi biết mình cần phải làm gì và làm như thế nào. Tôi đem câu nói ấy áp dụng vào việc tông đồ của mình, để rồi, tôi không còn cảm thấy xa lạ với họ nữa mà ngày càng cảm thấy yêu họ hơn. Những kinh nghiệm tông đồ và kinh nghiệm cầu nguyện đã làm hình thành nên một quan điểm, rằng: dù tôi chỉ làm cho họ một việc nhỏ, dù tôi chỉ cho họ một thứ gì đó không đáng giá nhưng tôi cho họ vì sự chân thành đi kèm với nụ cười thật tươi cũng đủ để làm họ ấm lòng.
      Và điều cuối cùng mà tôi nhận được từ những lần đi tông đồ như vậy chính là việc tôi đã nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Thật sự, tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về sự hiện diện của Đức Kitô nơi tha nhân. Đại loại như: Đức Kitô hiện diện nơi những người bé nhỏ, cô thế cô thân; nơi những em bé lang thang đầu đường xó chợ; nơi những người già cả neo đơn; nơi những kẻ tâm thần, hút chích, nghiện ngập; nơi những bệnh nhân…và những nơi khác nữa. Nhưng tôi chỉ dừng lại ở việc nghe mà thôi, hoàn toàn không cảm nghiệm được gì. Chính nhờ những lần được phục vụ ở đây, tôi mới thật sự nhận ra được lời mời gọi của Đức Kitô nơi gương mặt đầy khắc khổ và đau đớn của bệnh nhân. Và mỗi lần nhìn vào mắt họ, tôi như nghe thấy một tiếng gọi từ sâu thẳm nơi tâm hồn: “Thầy đây!”. Vâng, chỉ hai tiếng đơn giản vậy thôi nhưng lại làm tôi cảm thấy cần phải đặt lại mình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, để tìm ra cho mình một thứ gì đó có thể lấp đầy những khoảng trống nơi tâm hồn khô khan này. “Thầy đây!”, chỉ có hai tiếng thôi nhưng nghe thật gần gũi và thân thương, cứ ngỡ như ai đó đang trấn an mình vậy. Đúng thế, có ai đó đang thì thầm bên tai tôi, nhắc nhở tôi về sự hiện diện của Chúa nơi họ. Và đây là điểm mấu chốt giúp tôi nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Ngài không cần tôi phải làm những việc lớn lao, không cần tôi phải đi đến những vùng đất xa xôi để phục vụ tha nhân, mà ngay trong cộng đoàn này, tôi được mời gọi trở nên tông đồ của Chúa để phục vụ chính anh em mình, những người thật gần gũi và hiện diện cùng tôi mỗi ngày.
     Mặc dù ơn Chúa trên tôi không thiếu, nhưng tôi vẫn luôn thao thức làm sao để “xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2b). Với chút kinh nghiệm nhỏ nhoi học được từ những lần đi phục vụ tại bệnh viện, tôi muốn gửi đến anh em chút tâm tình, chút sẻ chia để cùng nhau ra đi “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”(Mc 16:15) theo cách thế của dòng Tên, vì“lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10:2a).

Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt