Nơi chia sẻ những điều thú vị...

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

Một vài nhận định về khía cạnh Đào tạo Mục vụ trong sắc lệnh Optatam Totius


Công đồng Vatican II là công đồng hoàn vũ thứ 21 của Giáo hội Công giáo Rôma. Sau gần 03 năm làm việc, các nghị phụ đã đúc kết thành quả của công đồng thành 4 hiến chế, 9 sắc lệnh và 3 tuyên ngôn. Trong 9 sắc lệnh của công đồng, có 2 sắc lệnh liên quan đến chức linh mục. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis đề cập đến tác vụ và đời sống linh mục. Sắc lệnh Optatam Totius đề cập đến việc đào tạo linh mục. Ngoài ra, các văn kiện còn lại cũng đề cập ít nhiều đến chức linh mục. Trong bài này, người viết sẽ nêu ra một vài nhận định cá nhân về khía cạnh đào tạo mục vụ trong sắc lệnh Optatam Totius, vì mối quan tâm về mục vụ chi phối tất cả công cuộc đào tạo.
1.        Tổng quan về sắc lệnh Optatam Totius
Sắc lệnh Optatam Totius được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965. Dù đã trải qua hơn 50 năm nhưng những giá trị của nó vẫn còn thích hợp cho việc đào tạo linh mục hiện nay. Sắc lệnh này gồm 22 số được chia thành 07 chương, cộng với lời mở đầu và phần kết luận. Nội dung của sắc lệnh đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của việc đào tạo linh mục: nhu cầu cần thiết phải soạn thảo đường hướng đào tạo linh mục tại mỗi quốc gia (1); việc ân cần cổ vũ ơn thiên triệu linh mục (2-3); tổ chức các đại chủng viện (4-7); sự quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo tu đức (8-12); tu chỉnh các môn học của giáo hội (13-18); cổ võ việc đào tạo mục vụ (19-21) và kiện toàn việc đào tạo sau khi mãn trường (22). Như vậy, khía cạnh đào tạo mục vụ mà bài viết này trình bày nằm từ số 19 đến số 21.
2.        Khía cạnh đào tạo mục vụ trong sắc lệnh Optatam Totius
Trong sắc lệnh này, các nghị phụ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo mục vụ: “mối quan tâm về mục vụ phải chi phối tất cả công cuộc đào tạo”. Các ngài muốn rằng phải đào tạo nên những linh mục có đủ khả năng để thi hành các công tác được trao.
Trước hết, các ngài khẳng định chủng sinh phải được hướng dẫn chu đáo về những gì đặc biệt liên quan đến tác vụ thánh, chủ yếu là dạy giáo lý và giảng thuyết, cử hành phụng vụ và trao ban các bí tích, hoạt động bác ái, tìm gặp những người lầm lạc hay chưa đón nhận đức tin và nhiều phận vụ mục tử khác. Các ngài cũng đề cập đối thoại như một công cụ hữu ích để thực thi các tác vụ thánh. Do đó, cần đào tạo cho các chủng sinh hai kỹ năng mềm rất cần thiết là lắng nghe và yêu thương.
Thứ đến, các chủng sinh cần được học các kiến thức sư phạm, xã hội, tâm lý để hỗ trợ cho việc thực hành mục vụ. Song song đó, họ phải được thấm nhuần tinh thần công giáo đích thực để biết hoạt động vượt khỏi ranh giới giáo phận, quốc giasẵn sàng ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng.
Cuối cùng, các chủng sinh cần được thực tập mục vụ với những công tác thích hợp, có phương pháp, hợp với độ tuổi và hoàn cảnh địa phương. Việc thực tập này vừa cá nhân vừa tập thể, vừa trong kỳ học vừa trong kỳ hè. Suốt thời gian thực tập mục vụ, các vị hữu trách cũng không quên nhắc nhớ các chủng sinh về tính cách ưu tiên của những phương tiện siêu nhiên.
3.        Nhận định về khía cạnh Đào tạo Mục vụ trong sắc lệnh Optatam Totius
3.1. Ở số 19, các nghị phụ nói rằng “chủng sinh phải được hướng dẫn chu đáo về những gì đặc biệt liên quan đến tác vụ thánh, chủ yếu là dạy giáo lý và giảng thuyết, cử hành phụng vụ và trao ban các bí tích”. Theo thiển ý của người viết, muốn dạy giáo lý và giảng thuyết thành công, cần ăn nói rạch ròi, đâu ra đấy, câu cú rõ ràng, trích dẫn chính xác; tổ chức một bài dạy hay một bài giảng cần có logic khoa học, thứ tự lớp lang, cô đọng khúc chiết, không dài dòng nhưng đủ ý. Vậy nên, việc học các môn Logic và Triết học cũng như các ngoại ngữ như La văn, Anh văn sẽ giúp các chủng sinh tư duy khoa học hơn. Học tiếng Việt sẽ làm phong phú vốn từ cho các chủng sinh; đồng thời, góp phần vào mục đích này. Cũng theo người viết, môn phương pháp luận giúp ích rất nhiều, không những cho việc ‘mục vụ xứ đạo’ mà còn để thi hành nhiều phận vụ mục tử khác: giảng dạy, nghiên cứu, viết sách, thuyết trình, v.v... Tuy nhiên, vấn đề là các chủng sinh học tập với tinh thần nào, cố hết sức chuyên tâm nghiên cứu hay ‘nín thở qua sông’?
Hiện nay, mạng lưới internet rất phát triển, tạo điều kiện cho các bài giảng (video, audio, word, v.v...) xuất hiện nhan nhản trên các trang mạng, Không chỉ các bài giảng mà các giáo trình dạy giáo lý, sinh hoạt thiếu nhi, tổ chức trại hè, gameshow, v.v... đều sẵn có trên internet. Các tài liệu này tạo thuận lợi rất nhiều để các chủng sinh và linh mục sử dụng vào việc học tập và giảng dạy, nhất là khi tác giả của chúng là giám mục, linh mục danh tiếng. Tuy nhiên, các chủng sinh dễ ỷ lại vào nguồn tài liệu này vì chúng rất dễ kiếm, chỉ cần nối mạng thì muốn là có. Do đó, nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc các chủng sinh thiếu đầu tư cho các bài viết của mình. Người viết có cảm tưởng chính sự phong phú của các nguồn tài liệu lại vô tình dẫn đến sự nghèo nàn trong tư duy và trong các ‘sản phẩm’ do chủng sinh viết ra. May thay, việc sử dụng internet trong Đại Chủng Viện Sao Biển được đặt dưới sự giám sát của các vị hữu trách nên hạn chế được việc lệ thuộc nhiều vào các trang mạng. Thế nhưng, người viết vẫn suy tư để làm sao tinh thần học tập của chủng sinh mỗi ngày một tốt hơn, như các bậc cha anh đi trước...
3.2. Cũng trong số 19, các nghị phụ nhắc đến bổn phận truyền giáo của các mục tử. Về vấn đề này, người viết nhớ đến một bài thuyết trình gần đây của Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long. Trong đó, ngài nói: “Xem ra các linh mục mới chỉ quan tâm đến mục vụ cho người đang giữ đạo, còn người lơ là hay người không biết Chúa thì chưa được quan tâm lắm. Các linh mục còn tập trung công sức vào mục vụ bảo tồn (pastoral de maintien) chứ chưa nhắm đến mục vụ truyền giáo (pastoral missionnaire). Cha Piô Ngô Phúc Hậu, một nhà truyền giáo lão thành tại giáo phận Cần Thơ, cũng nhận xét rằng các cha Việt Nam giỏi về điều hành giáo xứ, nhưng ít quan tâm đến việc truyền giáo. Có lẽ vì thế mà công cuộc Loan báo Tin Mừng tại Việt Nam dậm chân tại chỗ, không có kết quả là bao” [1]. Trong khả năng hạn hẹp và theo thiển ý của mình, người viết cho rằng muốn truyền giáo thành công, rất cần hai yếu tố: lòng nhiệt thành truyền giáo và vốn hiểu biết về nền văn hóa nơi muốn truyền giáo. Về lòng nhiệt thành truyền giáo, ngoài gương sáng, các bài giảng dạy, các môn học, các tài liệu, v.v... Đại Chủng Viện Sao Biển còn có các buổi hội thảo về truyền giáo do các nhà truyền giáo Việt Nam chia sẻ những kinh nghiệm thực tế của các ngài. Thiết nghĩ, đó là những kinh nghiệm quý báu giúp hun đúc nhiệt thành truyền giáo nơi các chủng sinh. Về vấn đề học biết văn hóa, người viết nhận thấy rằng việc học tập môn “Đại cương Văn hóa Việt nam” là một đáp ứng cần thiết. Môn học này không những đã cung cấp các kiến thức tối cần và sát với thực trạng hiện nay của Việt Nam mà còn chỉ ra các cách thế ứng xử sao cho khéo léo, mang đầy chất văn hóa; góp phần không nhỏ vào việc truyền giáo. Có thể nói, sau gần 20 năm đào tạo dưới mái trường ‘thiên đàng chủ nghĩa xã hội’, không riêng gì các chủng sinh mà dường như nhiều bạn trẻ hiện nay đã hỏng nhiều kiến thức về nguồn gội, văn hóa, truyền thống, lịch sử, địa lý của chính mình. Ai đó đã nói, người Việt Nam hiện nay đang sống lưu vong trên chính quê hương mình. Từ những lẽ đó, người viết mong rằng sẽ được học về văn hóa, không chỉ một kỳ mà ít là cả năm Tu Đức, để bù lại phần nào những kiến thức đã hỏng suốt gần 25 năm qua.
3.3. Có thể nói, các chủng sinh được học rất nhiều kiến thức và học rất giỏi về các môn học thánh. Các môn đó cần thiết cho sứ vụ sau này. Thế nhưng, giữa một xã hội đang đổi thay đến chóng mặt như hiện nay, việc rèn luyện cho mình các kỹ năng mềm cũng cần thiết không kém. Theo định hướng chung của Giáo hội, trong Ratio số 132, đã nói đến ba yếu tố cụ thể trong đào tạo mục vụ truyền giáo, trong đó có yếu tố tương quan, tức là sự khéo léo trong thực hành. Đây là điểm hay bị lãng quên. Năm 2015, trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công giáo và Dân tộc, Đức cha Antôn Vũ Huy Chương, khi ấy là Giám mục Giáo phận Đà Lạt và là Chủ tịch Ủy ban Giáo sĩ và Chủng sinh, đã nhận định như sau: “Có những linh mục rất nhiệt thành tông đồ và có nhiều tài năng trong việc mục vụ, nhưng lại thiếu khéo léo trong khi làm việc hay trong giao tiếp (với anh em linh mục, với giáo dân, với các tôn giáo bạn, với chính quyền...), nên đã gặp những khó khăn và thất bại trong việc loan báo Tin Mừng” [2]. Theo thiển ý của người viết, các kỹ năng mềm cần thiết như đệm đàn phụng vụ, sinh hoạt giới trẻ, tổ chức trại hè, cách ứng xử khéo léo, hiểu tâm lý các độ tuổi, các thao tác văn phòng, biết sử dụng các phần mềm hữu ích (về nhạc, ảnh, đồ họa,...), biết điện-nước-lao tác,v.v... Đa phần các kỹ năng mềm là do các chủng sinh tự học. Thiết nghĩ, Đại Chủng Viện Sao Biển nền có các buổi hội thảo, chia sẻ kiến thức về tâm lý, giáo dục giới tính, v.v... để giúp các chủng sinh thủ đắc những công cụ cần thiết cho việc mục vụ mai sau.
3.4. Tại Việt Nam, Phật giáo chiếm một số lượng tín đồ rất lớn. Không những thế, rất nhiều người lương dù không theo Phật nhưng quan điểm và lối sống của họ thấm nhuần các giá trị của Phật. Có thể nói, tư tưởng của Phật đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người dân Việt. Do đó, việc đối thoại với các thành phần này là điều hết sức khó khăn, nhưng không phải là không khả thi vì giáo huấn của Công giáo cũng rất gần gũi với niềm tin chung của người Việt, nhất là về hiếu kính tổ tiên. Vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu về Phật sẽ giúp ích rất nhiều cho sứ mạng phục vụ về sau của người linh mục. Theo thiển ý của người viết, có thể đưa môn học về Phật giáo vào chương trình giảng dạy của Đại Chủng Viện: tách riêng thành một môn hoặc nhập chung (nhưng nhấn mạnh) với môn Triết Đông. Nếu có thể, có những buổi thuyết trình về đề tài này cho các chủng sinh, do các chuyên gia hay các chức sắc của Phật giáo chia sẻ. Cũng có thể có các buổi giao lưu với các Phật tử hay tham quan các chùa để các tín hữu và Phật tử xích lại gần hơn. Đó là một trong những cách thức giúp các chủng sinh hướng công việc phục vụ ra khỏi nội vi xứ đạo để đến vùng ngoại biên như chính người Việt Nam đang từng bước thoát khỏi lũy tre làng để vươn ra thế giới. Đồng thời, điều đó cũng nhằm gieo mầm “đối thoại liên tôn” vào lòng các chủng sinh ngay từ môi trường đào tạo.
3.5. Số 20 của sắc lệnh nhắc đến việc chuẩn bị chu đáo cho các chủng sinh để họ biết khơi dậy và khích lệ hoạt động tông đồ giáo dân. Người viết rất tâm đắc với lời dạy này của thánh công đồng và cho rằng nó rất phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Có thể nói, dân tộc Việt Nam, dù mang tiếng bốn ngàn năm văn hiến nhưng xét về sự tiến bộ văn minh thì không bằng các nước Tây phương. Một cách nào đó, nhờ các giáo sĩ Tây cũng như Ta, ánh sáng văn minh đã chiếu tỏa đến vùng đất con Rồng cháu Tiên. Các giáo sĩ đóng vai trò ‘quan phụ mẫu’ vì được học hành đầy đủ nghiêm túc. Thế nhưng đã qua rồi cái thời thần quyền và thế quyền đan quyện vào nhau. Các linh mục không còn là ‘Đấng Toàn Năng’ trong xứ đạo. Thay vào đó, vai trò và vị trí của giáo dân đang dần được khẳng định trong Giáo hội. Nếu trước đây linh mục là người làm hết mọi sự thì ngày nay một số hoạt động sẽ do giáo dân đảm nhiệm. Vì vậy, cần khơi dậy và khích lệ để giáo dân, tùy vào khả năng của mình, có thể cộng tác vào việc loan báo Tin mừng. Người viết mạo muội nhận xét rằng vẫn còn những linh mục không mấy tin tưởng, thậm chí là coi thường giáo dân. Các ngài tự làm mọi sự theo ý riêng chứ ít khi ngó ngàng đến ý dân. Vẫn biết rằng, mỗi cây mỗi hoa mỗi nhà mỗi cảnh, tùy trình độ dân trí mà sự cộng tác có ít nhiều khác biệt nhưng méo mó có hơn không. Vì vậy, ngay từ đầu và xuyên suốt tiến trình đào tạo, các chủng sinh cần được huấn luyện để có tinh thần và kỹ năng làm việc chung, nhất là thoát được lối tư duy giáo sĩ trị để cùng cộng tác với mọi thành phần dân Chúa ngõ hầu làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
3.6. Ngoài các hoạt động tông đồ giáo dân, các nghị phụ cũng nhắc đến những phương thức hoạt động tông đồ đa dạng và hữu hiệu. Theo thiển ý của người viết, các nghị phụ có ý bàn đến các hoạt động như mục vụ di dân, mục vụ giới trẻ, mục vụ văn hóa, mục vụ nghiên cứu khoa học, v.v... chứ không dừng lại ở mục vụ xứ đạo. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, các hoạt động như thế đang dần trở nên phổ biến. Thế nhưng, do ảnh hưởng của nền văn hóa Việt Nam - an cư lạc nghiệp - mà phần đông các mục tử chú trọng đến việc xây dựng cơ sở vật chất hơn là dấn thân vào các hoạt động tông đồ khác. Đành rằng, nước ta đã trải qua thời gian chinh chiến quá lâu, các cơ sở thờ tự bị phá hoại nhiều vô kể nên việc tái thiết là điều đương nhiên. Thế nhưng, các mục tử vẫn phải ưu tiên cho con người hơn vì con người hôm nay dường như đang rơi vào cơn đói khát tâm linh. Cách riêng, đối với một bộ phận không nhỏ những người trẻ Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, họ đang mất dần định hướng (xét về mặt tâm linh) và cần nơi để bám víu. Các lãnh vực khác như văn hóa, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, v.v... cũng cần đến một lực lượng nhân sự đông đảo, trước là để phục vụ cho giáo hội và sau là phục vụ xã hội. Mặt dù giáo hội gặp nhiều khó khăn về phía chính quyền nhưng khi nhìn về tương lai, người viết vẫn nhận thấy cần phải lo xa chứ không thể lập kế hoạch cho vài năm. Hiện nay một số dòng tu hay các giáo phận (ở thành phố lớn) trong Giáo hội Việt Nam đã bắt đầu dấn thân vào các hoạt động tông đồ chuyên biệt như trên. Đó là dấu chỉ cho thấy tính khả thi của điều mà công đồng đề cập đến cách đây hơn 50 năm.
3.7. Số 20 của sắc lệnh mong muốn các chủng sinh phải thấm nhuần tinh thần công giáo đích thực, để biết hoạt động vượt khỏi ranh giới giáo phận,... So với các đại chủng viện khác, Đại Chủng Viện Sao Biển đặt nặng việc học ngoại ngữ để sau này có thể đi truyền giáo hoặc làm mục vụ ở nước ngoài [3]. Người viết đồng tình với hướng đi này của Đại Chủng Viện. Thứ nhất, học ngoại ngữ giúp các chủng sinh bổ sung phần khuyết thiếu khi không được học tiếng Việt một cách khoa học. Với kinh nghiệm cá nhân, người viết nhận thấy rằng những ai có kiến thức căn bản về ngoại ngữ thì cách tư duy và bài viết của họ logic hơn và trật tự hơn. Thứ đến, ngoại ngữ còn giúp các chủng sinh có cơ hội mở ra với thế giới bên ngoài để tiếp cận nguồn tri thức vô cùng phong phú của nhân loại. Kế đến, ngoại ngữ giúp cho việc mục vụ trở nên dễ dàng hơn nhờ các kinh nghiệm từ khắp nơi trên thế giới được đưa lên các trang mạng. Sau cùng, ngoại ngữ giúp các mục tử tự tin đi truyền giáo hoặc làm mục vụ ở nước ngoài, như một cách thế đền ơn đáp nghĩa các thừa sai xưa kia đã dấn thân sang Việt Nam truyền giáo.
3.8. Cuối cùng, số 21 của sắc lệnh đề cập đến việc thực tập mục vụ. Theo chương trình huấn luyện của Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, việc thực tập mục vụ theo sát Ratio của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trong năm học, các chủng sinh có những buổi thực tập tại giáo xứ hoặc cơ sở xã hội, bao gồm dạy giáo lý, sinh hoạt đoàn thể, thăm viếng người nghèo, neo đơn, bệnh tật cả lương giáo, sinh hoạt với cô nhi, trẻ em đường phố, người khuyết tật, người già ở các trung tâm xã hội, các bệnh nhân… Trong mùa hè, các chủng sinh có những công việc thực tập mục vụ tùy theo hoàn cảnh địa phương của mỗi giáo phận. Trong chương trình đào tạo hiện nay tại Đại Chủng viện, có 3 năm đặc biệt được chen vào chương trình 6 năm đào tạo truyền thống (2 năm triết học và 4 năm thần học), đó là : năm tu đức - 2 năm triết học - năm thử - 4 năm thần học - năm mục vụ. Trong đó năm thử năm mục vụ là thời gian đặc biệt dành cho việc thực tập mục vụ. Năm tu đức dành để tìm hiểu các đoàn thể Công giáo tiến hành và thăm viếng các cơ sở bác ái, xã hội khi có điều kiện. Ngoài ra, vào các kỳ nghỉ hè, các chủng sinh cũng được sai đến thực tập mục vụ tại các giáo xứ hay tại các giáo điểm truyền giáo. Mục vụ theo linh đạo linh mục giáo phận là “loan báo Tin Mừng với ba nhiệm vụ rao giảng, thánh hóa và lãnh đạo cộng đoàn”. Tất cả đều nhắm mục đích Phúc Âm hóa, trong đó có việc truyền giáo cho người chưa biết Chúa. Việc truyền giáo hữu hiệu nhất chính là làm chứng về tình yêu mục tử đối với hết mọi người, nhất là những người nghèo khổ, cả về tinh thần lẫn vật chất. [4]
4.        Một vài đề nghị cá nhân
4.1. Ngoại ngữ (Anh văn) là công cụ cần thiết, không chỉ cho việc mục vụ mà trước tiên là cho việc học tập. Vì thế, người viết mạo muội đề nghị rằng mỗi lớp nên có một vài dịch phẩm nào đó như là công trình tập thể để cho thấy nỗ lực của các thành viên trong lớp. Chẳng hạn, dịch một tác phẩm về tiểu sử thánh bổn mạng của lớp. Theo thiển ý của người viết, các sách về tiểu sử các thánh không phải là loại khó dịch. Nó vừa tầm với các chủng sinh là những người đã có bằng đại học hay cao đẳng. Hơn nữa, việc này vừa cung cấp kiến thức cho các thành viên (về thánh bổn mạng) vừa tạo cơ hội và thử thách cho việc làm việc nhóm.
4.2. Ban học tập của trường có thể thiết lập một nguyệt san chung cho toàn trường, phát hành định kỳ mỗi tháng một lần (hoặc tùy theo hoàn cảnh). Nguyệt san của trường là nơi gom góp các tài liệu bổ ích, do các chủng sinh viết, dịch thuật hay sưu tầm, để làm hành trang cho chủng sinh. Trong quá trình học tập, các chủng sinh đều phải viết bài và các cha giáo chấm điểm. Chắc hẳn sẽ có không ít bài viết hay có thể làm tài liệu tham khảo cho các chủng sinh khác. Ngoài ra, các cha giáo cũng có thể đóng góp các bài giảng đặc sắc hay những bài viết mang tính học thuật cao do các ngài nghiên cứu hoặc dịch thuật. Các chủng sinh cũng có thể đóng góp các nhạc phẩm của mình để làm phong phú nguồn tài liệu của ban học tập. Người viết rất thao thức Đại Chủng Viện cũng có được một nguyệt san như các đại chủng sinh Nha Trang đang thực hiện.
                                                                                          Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt



[1] Nguyễn Hữu Long, “Một vài ý tưởng về đào tạo truyền giáo tại Việt Nam hôm nay”, truy cập ngày 15/12/2019, https://catechesis.net/mot-vai-y-tuong-ve-dao-tao-truyen-giao-tai-viet-nam-hom-nay/
[2] Vũ Huy Chương, “Đào tạo linh mục là một tiến trình đào tạo toàn vẹn”, truy cập ngày 15/12/2019, http://cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/van-de-ton-giao/dao-tao-linh-muc-la-mot-tien-trinh-dao-tao-toan-ven_a1079
[3] Nguyễn Hữu Long, “Một vài ý tưởng về đào tạo truyền giáo tại Việt Nam hôm nay”.
[4] Vũ Huy Chương, “Đào tạo linh mục là một tiến trình đào tạo toàn vẹn”.