Nơi chia sẻ những điều thú vị...

Bài kết thúc môn Giáo lý

Câu hỏi: Bạn sẽ khởi sự từ đâu để nói cho con người của thời đại hôm nay hiểu và dễ dàng đón nhận đức tin Công giáo của chúng ta? Tại sao?

Đối thoại Phaedo và Linh tượng thuyết

Tóm lại, đối thoại Phaedo có tương quan rõ nét với thuyết linh tượng của Plato. Tuy nhiên, có một vấn đề mà người viết còn thắc mắc và muốn suy tư thêm. Linh hồn tuy bất tử và vĩnh cửu nhưng liệu nó có bất biến không? Nếu bất biến thì phải giải thích thế nào về thuyết hồi tưởng. Nếu không bất biến thì tri thức mà lý trí - một chức năng của linh hồn - đạt được, liệu có chắc chắn như Plato mong muốn?

Vấn đề Vô minh trong Phật học nguyên thủy và triết hệ Advaita Vedanta

Đa phần những bộ phim ấy đều có chung một mô tuýp: khởi đầu là cảnh thuận buồm xuôi gió trong tình yêu của nam nữ chính; tiếp đến là những tình tiết trắc trở, gập ghềnh xảy đến với họ, mà nguyên nhân là do những hiểu lầm của chính họ hoặc do những mối thù truyền kiếp của các thế hệ trước; sau cùng, khi những hiểu lầm ấy được hóa giải, hai nhân vật chính sẽ được ở bên nhau trọn đời, trừ một vài trường hợp có kết thúc buồn.

Sách mới: Phó Thác Hoàn Toàn - Những Lá Thư Gửi Các Chủng Sinh

“Cha Najim đã viết một bộ sưu tập những lá thư rất hay theo truyền thống Lectio Divina (Gặm nhấm Thiên Thư). Các chủng sinh, những người dành thời gian để suy nghĩ trong cầu nguyện những lời của ngài sẽ tiến xa hơn trên con đường phân định ơn gọi linh mục.”

Sách mới: Lời Giới thiệu

Các khía cạnh quan trọng nhất của tiến trình biện phân là cầu nguyện và suy gẫm thiêng liêng. Qua sự hiệp thông cá vị với Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được chúng ta là ai và chúng ta đang được kêu gọi để làm gì trong cuộc sống này. Việc cầu nguyện đúng nghĩa đòi hỏi thời gian và sự tập trung.

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

Bạn đồng hành


Đối với tôi, đời tu không phải là mục đích sống nhưng là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Vì thế, giống như bao con đường khác, đời tu cũng là một hành trình. Nơi đó, có tình yêu và sự bình an, có niềm vui và sự tha thứ; nhưng cũng có ích kỷ và mâu thuẫn, ganh tị và chia rẽ, v.v. Nhưng dẫu sao, tôi vẫn thấy lòng mình bình an. Vì trong đời tu, tôi có một nguồn động lực rất lớn, đó chính là tình bạn.
    Quả thật, cuộc sống mà không có bạn cũng giống như con thuyền không có bến, chẳng biết đến hạnh phúc là gì. Vì hạnh phúc của con thuyền là sau bao ngày lênh đênh trên biển cả được quay về bến để neo đậu và nghỉ ngơi. Cuộc đời mà không có bạn chẳng khác chi như dòng sông không có nước, nó khô khan và trơ trọi vì chẳng còn ai đến tắm trên dòng sông và cũng chẳng có sinh vật nào lui tới với nó nữa. Nhưng thuyền không chọn bến để neo cũng như dòng nước không chọn con sông để chảy. Chúng phó mặc cho sự sắp xếp của Tạo Hóa. Tình bạn cũng vậy, không ai có thể ép ai làm bạn của ai được. Tình bạn cần tự do vì nó là một ân huệ. Tự do đó thể hiện qua lòng tin tưởng người khác. Tôi không tin người không phải vì người không đáng tin nhưng lòng tin tưởng là một cái gì đó rất thiêng liêng. Tôi chỉ có thể vun trồng cho lòng tin đó chứ không tạo ra lòng tin. Dẫu cho tình bạn là một ân ban và cần có tự do nhưng tôi có thể tự hỏi mình rằng: “Tôi có thể làm gì để tình bạn được lớn lên?” Nghe có vẻ khó nhưng bởi vì nền tảng của tình bạn là tình yêu nên để nó lớn lên, tôi phải biết yêu. Và tình yêu luôn có chút hương chiếm giữ và ghen tương nên cũng cần phải loại bỏ những hương vị ấy ra khỏi tình bạn. Đồng thời, tình bạn cũng đòi hỏi sự kiên trì và nhẫn nại như bến đò vẫn hằng chờ mong cái ngày cánh buồm chuyển bánh quay về. Cũng cần có sự chịu đựng và hy sinh như con sông sẵn sàng để cho dòng nước trôi qua và bào mòn lòng sông.
    Tình bạn tuy cần thiết nhưng phải có điểm dừng để ra đi. Thuyền phải rời bến mà đi nếu không sẽ không còn là thuyền nữa mà chỉ là một đống phế thải. Dòng nước phải chảy qua con sông chứ nếu ở lại thì con sông đâu còn là con sông nữa, nó chỉ là cái hồ mà thôi. Hay như một con tàu có nhiều sân ga nhưng chỉ có một đường ray. Ở mỗi sân ga, con tàu chỉ dừng lại một chút nhưng đường ray thì con tàu sẽ theo mãi. Không có sân ga, con tàu vẫn chuyển bánh nhưng cô đơn và mỏi mệt, con tàu không hạnh phúc. Không có đường ray, con tàu chỉ là một đống sắt vụn và chết dần chết mòn theo năm tháng. Tình bạn cũng thế. Tôi và bạn quen biết rồi thân nhau, yêu thương nhau nhưng rồi phải xa nhau để đến với người khác nữa. Tôi và bạn không thuộc về nhau nhưng thuộc về Đức Ki-tô. Tôi đi qua bạn, bạn cũng đi qua tôi như một sân ga cho con tàu dừng lại nghỉ ngơi rồi cũng phải tiếp tục lăn bánh để đến nơi cần phải đến. Dù lòng người có bịn rịn hay oán trách vì chia ly thì khi tiếng còi vang lên, con tàu vẫn phải đi vì đó là mục đích mà nó được tạo nên. Không thể dừng lại mãi ở một người nào đó nhưng phải can đảm từ bỏ để lên đường. Sẽ có nhiều đớn đau và khổ sở khi phải từ bỏ. Nhưng bạn và tôi như hai bờ của một đường ray. Chúng ta song hành chứ không đi chung trên một con đường. Vì khi đi chung thì chúng ta không còn là đường ray nữa. Nên dù không muốn tôi và bạn vẫn cứ phải cất bước ra đi một mình mà thôi.
    Lạy Chúa, con phải chấp nhận một thực tại là chỉ có một con đường cho riêng con đến với Chúa mà thôi, không ai đi chung với con cũng không ai đi thay cho con được. Nhưng đi một mình thì con sợ lắm. Con sợ đường đời có lắm nỗi gian truân vất vả. Con sợ phải xa bạn hữu như con tàu rời ga mà đi. Con sợ cô đơn, sợ thất vọng, sợ vấp ngã…và bao nỗi sợ khác nữa. Xin Chúa hãy làm bạn với con và đồng hành cùng con trên hành trình ơn gọi của mình. Amen.
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Ơn Thiên Triệu


Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Hôm nay có nhiều ý nghĩa. Giáo hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Xã hội mừng “Ngày của Mẹ”. Cha giám đốc tròn 20 năm linh mục. Hai cha khởi hành sang Pháp phục vụ. Những điểm đặc biệt ấy đều ẩn hiện hai từ: ơn thiên triệumẹ. Vì thế, quỳ trước Mình Thánh Chúa, với những ý nghĩa trên, với những lời huấn đức từ cha đồng hành, chúng con vừa lượng giá vừa phân định về ơn thiên triệu của chính chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con ơn bình tâm, xin chiếu soi ánh sáng chữa lành của Chúa vào những hỗn độn, rối rắm trong tâm hồn để chúng con sáng suốt lượng giá và phân định ơn thiên triệu của mình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Có nhiều từ khác nhau để diễn tả lý tưởng sống mà chúng con đang theo đuổi. Trong số đó, con thích nhất từ ƠN THIÊN TRIỆU. Tuy chỉ có ba chữ nhưng mỗi chữ đều có ý nghĩa sâu xa. Chữ ƠN hàm ý rằng vì thương yêu mà giúp đỡ và vì được giúp đỡ mà phải yêu thương. Nó giống như con đường hai chiều, từ trên ban xuống và từ dưới dâng lên. Những gì chúng con được hưởng dùng nơi đây là do người ta bố thí cho. Biết đâu, đó chẳng phải là những đồng bạc góp gom của cha mẹ, của những bà góa nghèo, của chú thợ hồ, của bà buôn ve chai hay ông già bán vé số. Con được biết điều này. Có bà góa nghèo nọ. Sống không chồng không con. Trong căn nhà rách nát. Cả đời bà lam lũ. Kiếm chút cơm manh áo. Sống qua ngày đoạn tháng. Lúc bóng ngả xế tà. Bà mang cho cha xứ. Một cục bạc lẻ cũ. Đủ năm chục triệu đồng. Lưng còng răng đã móm. Bà run rẩy thưa cha. Cha ơi nhờ cha giúp. Mang cha cho giám đốc. Để ngài nuôi các chú. Cả đời con nghèo khổ. Chỉ góp được nhiêu đây. Mong cha nhận lòng thành. Như một của lễ mọn. Con tiến dâng Chúa Trời. Nhận từ tay bà góa. Cục tiền thơm mùi mắm. Ông cha xứ lặng thinh.Thằng chú xứ thinh lặng. Người ta quyên góp tiền để giúp các chủng sinh theo đuổi lý tưởng làm linh mục nhưng lắm khi con lại đuổi theo bóng hình của một ai đó, của một sự gì đó, một việc nào đó hay một thụ tạo nào đó. Lạy Chúa, vì con chưa giãi dầu mưa nắng, chưa đội gió đội sương, chưa thức khuya dậy sớm, chưa bán mặt cho đất bán lưng cho trời, nên con dễ sống như một công tử, dễ dùng tiền như chuyện phải rồi. Đây là cám dỗ rất lớn đối với con. Xin Chúa thương gây cho con những khó khăn, những gian nan vất vả để con bớt vô ơn với công khó của bao người.
Chữ THIÊN ngụ ý rằng sự hiên diện của chúng con nơi đây là sáng kiến của Chúa và vì Chúa. Chúng con thuộc về Chúa, thuộc về Nước Trời. Xin Chúa cho con ý thức nguồn gốc của con để con biết từ bỏ những gì không thuộc về thiên giới, từ bỏ những tính toán nhỏ nhen ích kỷ của xác phàm, biết hướng động lực đi tu về đúng mục đích, để hăng hái dấn thân vào đời chứ không phải lánh đời tìm một chỗ ngụ cư, để chủ động sống sinh động cuộc đời tươi trẻ chứ không phải thụ động cho cuộc đời đưa đẩy đẩy đưa. Xin cho con đừng bắt cá hai tay, vừa muốn thuộc về Trời lại vừa muốn hưởng thụ những thú vui thế gian. Chúa ơi, nếu con lỡ dại đứng chân trong chân ngoài thì xin Chúa kéo con lại để hai chân con đứng về cùng một phía. Nếu mắt con trông về núi nọ trong khi chân còn đứng ở núi này thì xin Chúa mau mau giúp con thu đôi mắt về cùng một phía với đôi chân. Nếu con trót ăn ở hai lòng với Chúa thì xin cắt bớt một lòng để chỉ còn lại một, hầu con sống hết lòng hết dạ với Chúa mà thôi. Nếu trái tim con vô tình chia hai nửa, nửa bên này con để dành cho Chúa nửa bên kia con chừa lại cho ai đó thì xin Chúa quyện lại để thành một con tim duy nhất, con tim chỉ dành cho Chúa mà thôi.
Chữ TRIỆU gợi lên rằng, chúng con được Chúa gọi đến để làm việc của Chúa, cho Chúa. Xin thánh hóa tâm trí con nên trong suốt để con đi tu với ý hướng làm vinh danh Chúa chứ không vì vinh thân con. Trong tiếng Việt, chữ triệu hàm chứa một con số rất lớn. Hiện nay, nhiều nơi khắp thế giới thiếu mục tử, thiếu thánh đường và thiếu cả con chiên. Từ đây đến 10 năm nữa, Canada sẽ đóng cửa 9000 ngàn nhà thờ. Nhiều cộng đoàn dòng nữ phải đóng cửa hoặc di dời vì không có linh mục cử hành thánh lễ, đàn chiên ở những vùng sâu xa thiếu chủ chăn, thiếu người chăm sóc. Thế nhưng, đây đó trong giáo hội, trong giáo phận vẫn có những con người quảng đại hiến dâng thân mình để đi đến nơi xa xôi phục vụ Chúa, phục vụ con người. Họ ra đi mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là làm vinh danh Chúa. Chúa ơi, thực trạng giáo hội khắp năm châu là thế mà tình trạng của con thì ... Ôi lạy Chúa! Đấng từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết nâng niu và quý trọng cuộc sống nơi đây.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Dường như người ta không sử dụng cụm từ thiên chức làm cha mà sử dụng cụm từ thiên chức làm mẹ. Họ cũng không sử dụng cụm từ thiên chức phó tế, thiên chức giám mục mà sử dụng cụm từ thiên chức linh mục. Hai thiên chức này có nhiều nét tương đồng. Thường thường mẹ là người ủng hộ, cầu nguyện nhiều nhất cho ơn thiên triệu của con mình. Cô dì thím bác trong họ hàng, các bà các mẹ trong xứ đạo là những cổ động viên nhiệt tình nhất cho người đi tu. Mẹ không chỉ cầu nguyện cho ơn thiên triệu của riêng con mình mà còn cho cả những ai là bạn con mình nữa. Đức Mẹ là đấng bầu cử và bảo trợ thần thế nhất cho ơn thiêu triệu. Nhiều người ghép tên Đức Mẹ vào tên thánh của mình để ghi dấu sự can thiệp của Mẹ trong hành trình ơn thiên triệu của họ. Việc làm mẹ thật thiêng liêng và quý giá đến nỗi được thần thánh hóa để trở thành thiên chức. Nhưng vì sao vẫn có nhiều mẹ nhẫn tâm tước đoạt mạng sống con mình ngay khi chúng còn chưa chào đời? Chức linh mục phát xuất từ trời cao nên được gọi là thiên chức, nhưng vì sao đây đó trong giáo hội vẫn còn những linh mục vướng vào tội ấu dâm hay lạm dụng tính dục? Trước thực trạng như vậy, xin cho con đừng phán xét, đừng chỉ trích, đừng lên án, đừng rời bỏ giáo hội nhưng biết cầu nguyện cho các ngài và nỗ lực tu sửa bản thân ngay hôm nay: sống kỷ luật, sống lành mạnh, tha thiết với đời tu; tập xa rời những giải trí dung tục, những quảng cáo mất nết, những hình tượng phim ảnh không đoan trang không đứng đắn. Hơn nữa, biết chạy đến cùng Đức Mẹ, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Trọn Đời Đồng Trinh, Cực Thanh Cực Sạch, Trong Trắng Vô Ngần,...
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, với tâm tình con thảo, chúng con cầu xin Chúa xuống muôn ơn lành trên các vị chủ chăn của chúng con là Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức cha Mátthêô, Đức cha Phêrô, cha giám đốc, cha đồng hành, quý cha giáo và thầy đồng hành; để các ngài luôn được đầy tràn “lòng mến Chúa và ân sủng Chúa”. Cách riêng, trong dịp kỷ niệm 20 năm thụ phong linh mục của cha giám đốc, chúng con cầu xin Chúa ban cho cha những ơn cần thiết để ngài tiếp tục nên đồng hình đồng dạng với Chúa, nên một Alter Christus. Chúng con cũng không quên cầu nguyện cho cha giáo của chúng con là cha Phaolô Trịnh Duy Ri. Qua bệnh tật, xin cho ngài được thông phần vào sự đau khổ của Chúa để cùng được vinh quang với Chúa khi khỏi bệnh. Xin gìn giữ hai cha sắp đi Pháp để các ngài luôn thấy Chúa trong mọi sự hầu làm vinh danh Chúa và làm gương sáng cho chúng con qua đời sống chứng tá mình. Chúng con xin Chúa gìn giữ thân nhân và ân nhân của mỗi chúng con. Sau hết, chúng con xin dâng cho Chúa ơn thiên triệu của chính chúng con, xin Chúa gia tăng ơn Chúa trên mỗi chúng con để mỗi ngày chúng con sống trong niềm vui, sự bình an và lòng biết ơn. Xin cho chúng con can đảm liều lĩnh vì lời hứa của Chúa: "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay Tôi." (Ga 10,28)
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Ba lời khuyên Phúc Âm để thăng tiến cộng đoàn

"Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông" (Lc 17,21). Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người Pharisêu trong dụ ngôn mười người phong hủi. Lời rao giảng năm nào của Chúa Giêsu vẫn còn vọng vang mãi cho đến hôm nay. Lời đó mời gọi chúng ta cùng chung tay góp sức xây dựng góc thiên đường nơi trần thế. Nói cách khác, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ý thức rằng Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, nơi Chủng viện Qui Nhơn này. Thế nhưng, hành trình xây dựng góc thiên đường ấy gặp không ít chông gai đến từ nhiều phía khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Có lẽ vì biết trước những trở ngại hôm nay mà hôm xưa Chúa Giêsu đã đưa ra những giải pháp hữu hiệu để thăng tiến cộng đoàn đang sống thành góc thiên đường nơi chủng viện. Giải pháp ấy chính là ba lời khuyên phúc âm, mà theo truyền thống Tôma Aquinô, chúng được sắp xếp như sau: khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.
Khiết tịnh
Nhắc đến khiết tịnh, nhiều người nghĩ ngay đến vấn đề quan hệ tình dục hay chí ít là nghĩ đến chuyện sống độc thân nơi các linh mục và tu sĩ. Điều đó đúng. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa bóng bẩy hơn một chút, chúng ta nhận ra rằng khiết tịnh còn là làm sao để có được tư tưởng trong suốt, lời nói trong sáng và hành động trong sạch. Cả ba điều ấy tuy đơn giản nhưng theo những cách khác nhau, chúng đủ sức giúp thăng tiến đời sống cộng đoàn thành góc thiên đường nơi chủng viện.
Trong suốt tư tưởng bắt đầu từ việc trong suốt hóa động cơ của hành động. Quả thật, động cơ của hành động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chung vì nó chi phối hầu hết mọi hành động của đương sự. Chẳng hạn như, khi bàn đến việc xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện, nếu chúng ta góp ý kiến với một động cơ không mấy trong suốt, như khó chịu hay bõ tức, chúng ta sẽ nhận lấy bảng kết quả không khả quan. Tương tự như vậy, động cơ tu trì góp một phần lớn vào việc duy trì sự ổn định của cộng đoàn. Câu trả lời cho câu hỏi đi tu vì điều gì sẽ là một trong những đáp án cho tình trạng của chính cộng đoàn ấy. Khi ai nấy đều có một động cơ tu trì trong suốt, chắc hẳn cộng đoàn sẽ thăng tiến vì mọi thành viên đều đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó sẽ dẫn đến sự hòa hợp trong công việc chung vì ai cũng đều hướng đến những lý tưởng tốt đẹp của đời tu. Động cơ trong sáng khiến chúng ta không sợ hãi, không nín thở qua sông nhưng can đảm sống trung thực, không lấp liếm hay lén lút làm chuyện này chuyện kia sau lưng bề trên và anh em. Trong suốt tư tưởng còn thể hiện qua việc nghĩ đúng về anh em. Khi nghĩ đúng về anh em chúng ta sẽ đánh giá đúng hành động của họ. Từ đó, chúng ta sẽ dễ thông cảm hơn khi xảy ra những trúc trắc trục trặc trong cộng đoàn. Nghĩ đúng về anh em là bước đầu và căn bản để nghĩ tốt về họ. Do đó, chúng ta cần trong suốt tư tưởng để có cái nhìn khách quan và đúng đắn hầu thăng tiến cộng đoàn hơn.
Trong sáng lời nói là tránh nói hành nói xấu, nói lời hai ý và dán nhãn. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên các tín hữu ở Êphêsô: "Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, ... đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ..." (Ep 4,29.31).  Quả thật, trong đời sống cộng đoàn, lời nói có sức mạnh xây dựng nhưng cũng có sức mạnh phá đổ. Thứ nhất, những lời nói hành nói xấu hay những nhận xét không khách quan về người khác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định trong cộng đoàn. Thậm chí nó còn ảnh hưởng đến ơn thiên triệu của anh em. Vì thế, từ chỗ nghĩ tốt về anh em cộng với động cơ trong sáng của chúng ta khi trình bày với bề trên hay khi góp ý với chính đương sự, chúng ta dễ dàng nói những lời tốt đẹp, những lời mang tính xây dựng và làm ích cho người nghe như thánh Phaolô đã dạy. Nhờ đó, chúng ta sẽ tránh được việc nói cho đã miệng, cho thỏa mãn cái tôi trong khi không biết những lời nói của mình sẽ ảnh hưởng tới người khác như thế nào. Thứ hai, những lời hai ý dễ khiến cho người nói nghĩ rằng mình khôn ngoan, sâu sắc. Nhưng đối với những người nghe, họ cảm thấy phải đề phòng vì không biết người nói có ý đồ tốt hay xấu đối với mình. Vô hình chung, những lời ấy tạo ra sự nghi kỵ trong đời sống chung rồi dần dần dẫn đến chia rẽ. Dĩ nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng, đôi khi, những lời hai ý lại là duyên cớ gây nên những niềm vui nho nhỏ nơi cộng đoàn. Đó là khi nó được người nói thốt ra với sự chân thành và trong suốt. Thứ ba, dán nhãn cũng là một trong những hành động gây đổ vỡ cộng đoàn. Tuy có những nhãn dán rất dễ thương và dễ chịu khiến người được dán nhãn cảm thấy bằng lòng và dễ đón nhận nhưng cũng có những nhãn dán khiến người khó chịu và suốt đời vận vào họ và khiến họ không còn là chính họ nữa. Những nhãn dán hay những lời châm chọc, một khi được thốt ra nhiều lần, sẽ ám vào người khác, theo cùng một cách thức như tự kỷ ám thị. Như thế, để trong sáng lời nói, chúng ta cần hết sức tránh nói hành nói xấu, nói lời hai ý với dụng tâm xấu và dán những nhãn hiệu không cần thiết.
Trong sạch hành động là dám chịu trách nhiệm về việc mình làm và sẵn sàng dấn thân để làm nhiều hơn người khác khi cần thiết. Dám chịu trách nhiệm về việc mình làm là ngay thẳng trong việc làm, không trốn tránh trách nhiệm, chu toàn bổn phận của mình mà không phân bì với người này người kia. Đó còn là can đảm nhận lỗi khi vô tình hay hữu gây ra những thiệt về vật chất trong cộng đoàn. Sẵn sàng dấn thân để làm nhiều hơn người khác khi cần thiết là can đảm đón nhận những công việc có vẻ như bất công bằng giữa anh em với nhau. Đôi khi, phần công việc chúng ta nhận được nhiều hơn người này người kia không phải là do những bất công trong đời sống cộng đoàn, không phải do ỷ lớn hiếp bé, ma cũ bắt nạt ma mới mà là do khả năng của chúng ta trội hơn người khác nên được bề trên và anh em tín nhiệm. Không những thế, đây còn là cơ hội để chúng ta âm thầm hi sinh và dâng lên Chúa như của lễ riêng mình. Không hẳn làm việc bằng nhau sẽ mang lại bình yên cho cộng đoàn. Sự bất công hợp pháp đôi khi sẽ tạo ra tình liên đới. Quả thật, đời sống cộng đoàn sẽ 'êm' hơn nếu chúng ta biết chịu đựng chút thiệt thòi be bé như vậy.
Như thế, trong suốt tư tưởng, trong sáng lời nói và trong sạch hành động là ba việc làm cần thiết và khả thi để có thể góp phần thăng tiến cộng đoàn đang sống thành góc thiên đường đang ở giữa chúng ta.
Khó nghèo
Khi đề cập đến lời khuyên khó nghèo, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến một đời sống giản dị, thanh cao, thoát tục và không có nhiều của cải. Nghĩ vậy không có gì là sai cả. Thế nhưng, ngoài sự khó nghèo qua vẻ bề ngoài, chúng ta còn có thể nhận thấy rằng vẫn tồn tại sự khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Đây chính là những thực hành đơn giản để chúng ta góp phần xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện.
Khó nghèo trong tư tưởng nghĩa là suy nghĩ theo chiều hướng đơn giản hóa vấn đề để nhìn nhận những điểm đen tối trong đời sống cộng đoàn theo hướng nhẹ nhàng để ôn tồn giải quyết. Chẳng có cộng đoàn nào mà không có rắc rối. Tuy nhiên, cách nhìn nhận vấn đề và giải quyết chúng mới là điều đáng quan tâm. Đơn giản hóa vấn đề là một cách giải quyết. Nó có nghĩa là tránh suy nghĩ phức tạp khi không cần thiết. Có những chuyện thật nhỏ bé những vì muốn xé nó ra cho thật to để chứng minh rằng mình đúng, thì lại gây ra những tác hại nặng nề cho cộng đoàn. Mặt khác, khó nghèo trong tư tưởng còn là suy nghĩ có chọn lọc. chọn những suy nghĩ thật sự cần để giữ lại vì những điều không cần thiết cứ ở lại trong tư tưởng lâu ngày, nó sẽ vận vào cách chúng ta đánh giá người khác, theo quy tắc tự kỷ ám thị. Như thế, khó nghèo trong tư tưởng bao gồm việc đơn giản hóa vấn đề và suy nghĩ có chọn lọc.
Khó nghèo trong lời nói không có nghĩa là sử dụng ngôn ngữ cách nghèo nàn hoặc không được sử dụng ngôn từ văn vẻ, bóng bẩy. Khó nghèo trong lời nói là cẩn ngôn và kiệm ngôn. Cẩn ngôn là nói năng cách cẩn thận. Chúng ta hãy nghe thánh Giacôbê tồng đồ luận bàn về cái lưỡi để hiểu được vì sao chúng ta phải cẩn ngôn. "Thưa anh em, đừng có nhiều người trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết rằng ... Cái lưỡi ... là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. Thật thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người" (Gc 3,3-9). Kiệm ngôn là nói năng tiết kiệm. Cổ nhân có câu "người năng nói năng lỗi". Trong đời sống cộng đoàn, hầu hết những rắc rối xảy ra đều xuất phần lớn từ lời ăn tiếng nói. Đôi khi, vì hơn thua, vì tức nhau tiếng gáy hay vì muốn cho lời nói của mình có sức thuyết phục, người ta không ngại nói những lời sai sự thật hoặc nói một nửa sự thật để đánh lận con đen, hầu đạt được mục đích của mình. Do đó, kiệm ngôn là cần thiết để duy trì sự ổn định của cộng đoàn. Một người vừa cẩn ngôn vừa kiệm ngôn là người biết tự chủ và có trách nhiệm với lời nói của mình. Như vậy, khó nghèo trong lời nói bằng sự cẩn ngôn và kiệm ngôn sẽ góp phần thăng tiến cộng đoàn mỗi ngày một hơn.
Khó nghèo trong việc làm thể hiện qua lối sống giản dị, không đòi hỏi quá đáng những gì được dùng. Với lối sống giản dị, chúng ta không bị lệ thuộc quá mức vào của cải vật chất cũng không bị nó kiềm kẹp. Sự khó nghèo khiến người ta dễ dàng hào phóng chứ không phóng ra từng hào như những người khư khư giữ lấy của cải cho mình. Giản dị trong cách ăn mặc sẽ không làm cớ cho anh em vấp phạm, cũng không gây ra phiền hà cho nhau. Trước khi vào chủng viện mỗi anh em có một mức sống khác nhau. Người thì dư dả để khoác lên mình những bộ cánh đắt tiền, những đôi giày hàng hiệu hay loại nước hoa xa xỉ. Nhưng cũng có người không may mắn được như thế. Họ lớn lên trong cảnh bần hàn, chưa bao giờ được trải nghiệm những thứ xa xỉ phẩm. Sống chung với nhau đòi buộc mỗi người cố gắng tuân theo một mức sống chung. Tất nhiên, không ai bắt buộc chúng ta phải đoạn tuyệt hoàn toàn với những gì chúng ta đã có trước đây nhưng lối sống này mời gọi chúng ta sử dụng của cải vật chất phù hợp với môi trường và bậc sống của mình. Nghèo khó trong cách sống còn giúp chúng ta dễ cảm thông hơn với những người nghèo mà sau này chúng ta phục vụ.
Như thế, khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm giúp chúng ta tự do hơn trong cách tương quan với anh em hầu kiến tạo và duy trì không gian thánh thiện nơi cộng đoàn chúng ta đang sống. Đồng thời, khi đứng trước những biến cố trong đời sống cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta đừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn, đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng (Ep 4,26.27). Đó cũng là cách để chúng ta sống khó nghèo trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Vâng phục
Công đồng chung Vatican II tiếp bước học thuyết Tôma Aquinô khi sắp xếp sự vâng phục như là chóp đỉnh của các lời khuyên Phúc âm. Đây là nhân đức giúp chữa lành nguyên tội mà qua đó con người từ bỏ bản thân để quy phục Thiên Chúa. Trong đời sống cộng đoàn, nếu mọi thành viên đều biết kính trên nhường và làm tôi một mình Thiên Chúa, thì cộng đoàn ấy sẽ triển nở và hạnh phúc. Như thế, để luyện tập nhân đức này, chúng ta cần phải biết mình, từ bỏ ý riêng và tôn trọng người khác.
Biết mình là xác đất vật hèn để không lên mặt kiêu căng với anh em. Biết rằng những gì mình có là Chúa cho để trân trọng và không coi thường người khác. Biết mình sống ở đây là do bao người góp công góp sức nuôi mình để sống biết ơn. Biết mình còn thể hiện qua việc khiêm tốn đón nhận những lời khen chân thành từ người khác. Quả thật, không thể nói hết những gì mình cần phải biết về chính mình nhưng chỉ đề cập đến những gì cần thiết và có liên hệ đến các mối tương giao trong cộng đoàn. Người biết mình là người sẵn sàng 'xuống nước' để cộng đoàn được trong ấm ngoài êm. Có một câu ca dao, tuy đề cập đến tình nghĩa vợ chồng, nhưng thiết nghĩ, nó có thể áp dụng trong đời sống cộng đoàn. "Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê". Quả thế, biết mình giúp chúng ta dễ dàng hạ mình.
Bỏ ý riêng là để ý chung được thực hiện. Ý chung đó thể hiện qua quyết định của bề trên và những người được bề trên giao phó cho trách nhiệm này kia trong cộng đoàn. Ai cũng muốn làm theo ý mình thì rồi cộng đoàn sẽ đi về đâu. Một cộng đoàn hay một tổ chức, muốn duy trì sự ổn định, luôn có những luật lệ. Khi mọi thành viên đều tuân thủ luật lệ cũng như người lãnh đạo, ắt cộng đoàn sẽ triển nở. Bằng không, chín người mười ý, không ai chịu ai, ắt cộng đoàn sẽ đi từ đổ vỡ này đến đổ vỡ khác. Ngoài việc phải vâng lời bề trên và những người đại diện hợp pháp của bề trên, thiết nghĩ, sự kính trọng những người lớn tuổi hay những người có thâm niên hơn trong cộng đoàn cũng là phương thế giúp từ bỏ ý riêng cách hữu hiệu. Người Việt Nam có câu 'kính lão đắc thọ' là vậy. Tuy họ không phải là bề trên nhưng với kinh nghiệm và sự từng trãi, họ xứng đáng nhận được sự kính trọng của những người đi sau. Thế nên, khiêm nhường và tôn trọng họ là điều cần thiết. Phần họ, đừng bao giờ nghĩ mình là 'lớn''la lối thóa mạ' hay buông những lời 'chua cay gắt gỏng'. Bỏ ý riêng là cách vâng phục tốt nhất.
Tôn trọng người khác là ý thức mình và người khác có sự khác biệt và cũng quan trọng như nhau. Cả hai đều đặc biệt và duy nhất. Thế nên, thay vì bắt người khác phải suy nghĩ giống mình, làm cùng một cách như mình, chúng ta hãy cho mỗi người một trời tự do để họ tùy nghi sáng tạo theo khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Sự tôn trọng người khác không chỉ thể hiện nơi những người ngang hàng với nhau mà còn thể hiện trong tương giữa bề trên và bề dưới, giữa nhà huấn luyện và người thụ huấn. Bởi lẽ, chúng ta dang sống trong một thời đại biến đổi khôn lường. sự thay đổi nhanh chóng của các phương tiện truyền thông và công nghệ khiến cho khoảng cách giữa các ý thức hệ mau chóng tăng lên. Chỉ cần sinh ra cách nhau vài năm là đủ để có những suy nghĩ và tư tưởng khác nhau. Cách làm việc, thế giới quan, cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề cũng khác nhau dẫn đến sự khác nhau về cách xử lý vấn đề. Thế nên, dù là tương quan giữa bề ngang với nhau hay giữa bề trên với bề dưới, đều rất cần đến sự tôn trọng người khác.
Tóm lại, từ hai ngàn năm nay, giáo hội luôn nỗ lực xây dựng góc thiên đường nơi thế gian. Giáo hội lên tiếng bảo vệ nền luân lý đang dần bị tụt dốc, thậm chí ở những nơi mà trước đây là thủ phủ của giáo hội. Giáo hội bảo vệ phẩm giá con người; bênh vực cô nhi quả phụ; đòi quyền lợi cho những di dân; giáo hội nối lại nhịp cầu đại kết; mở ra những cuộc đối thoại liên tôn để mưu cầu hòa bình; v.v... Trong mọi khả năng và cách thế, giáo hội nỗ lực xây dựng góc thiên đường nơi thế gian. Phần chúng ta, dù chỉ là những chủng sinh bé nhỏ của Chúa, dù đang đang bị giới hạn về nhiều mặt, nhưng chúng ta cũng được mời gọi cộng tác vào công cuộc của giáo hội bằng việc xây dựng góc thiên đường nơi Chủng viện Qui Nhơn. Qua ba lời khuyên Phúc Âm - khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục - chúng ta có trong tay những chất liệu cần thiết để biến nơi chúng ta đang sống thành thiên đường. Chúng ta sống khiết tịnh qua việc trong suốt hóa tư tưởng, trong sáng hóa lời nói và trong sạch hóa hành động. Chúng ta sống khó nghèo từ trong tư tưởng, lời nói cho đến hành động qua việc đơn giản hóa vấn đề và suy nghĩ có chọn lọc; không nói hành nói xấu, không nói lời hai ý, không dán nhãn; và sống giản dị. Chúng ta sống vâng phục qua việc tìm biết mình, từ bỏ ý riêng và tôn trọng người khác. Hơn tất cả, chúng ta liên lỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho mọi ơn cần thiết để can đảm xây dựng góc thiên đường nơi chủng viện vì Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Chút kinh nghiệm cho bạn và cho tôi



Tròn tám tháng kể từ ngày tôi trở thành thành viên của Nhà Ứng Sinh Dòng Tên Việt Nam, tôi được Ban Giám Đốc sai đến hai điểm tông đồ để phục vụ các bệnh nhân. Ở mỗi nơi, tôi đều có một trải nghiệm riêng nhưng chung một dòng cảm xúc.
     Điểm đầu tiên mà tôi được sai đến là Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Ở đây, tôi cùng với một vài anh em phụ giúp các sơ nấu cháo và phát cháo cho bệnh nhân. Công việc tuy đơn giản nhưng cũng có những khó khăn nhất định của nó. Bởi một phần do chưa quen với công việc, một phần do còn nhút nhát và do tôi chưa thực sự yên mến việc tông đồ. Tuy vậy, dưới sự hướng dẫn tận tình của các sơ và các anh em, tôi cũng dần vượt qua được những khó khăn ấy.
     Điểm tông đồ thứ hai mà tôi được phục vụ là Bệnh viện Ung Bướu. Công việc của tôi là phụ các cô phát thức ăn cho các bệnh nhân và chuyện trò với họ. Phát đồ ăn thì không thành vấn đề nhưng trò chuyện với họ lại là một trở ngại rất lớn đối với tôi. Biết vậy, tôi đã nhiệt thành cộng tác với các sơ, các cô và các anh em khi họ giúp đỡ, nên giờ tôi đã tự tin hơn khi tiếp xúc và tâm sự với bệnh nhân.
     Qua hai lần đi tông đồ như vậy, tôi thấy mình còn nhiều thiếu sót và cần phải cố gắng hơn nữa, tuy nhiên, như một ơn an ủi mà Chúa muốn gửi đến tôi, tôi thấy mình đã học được nhiều điều từ những lần phục vụ bệnh nhân ở đây.
     Kinh nghiệm đầu tiên mà tôi nhận được sau hai lần đi tông đồ chính là tinh thần và thái độ của người làm tông đồ chứ không phải việc làm của họ. Khi đi tông đồ, tôi luôn tự vấn mình rằng : “Tôi phục vụ các bệnh nhân vì điều gì? Vì tôi hay vì Chúa?”. Với tinh thần của Dòng, tôi xác tín với bản thân một điều: “ Tất cả cho vinh danh Thiên Chúa hơn”. Chính nhờ những suy nghĩ đó nên tôi dần thay đổi thái độ của mình khi đi tông đồ. Tôi không còn đến với những điểm tông đồ bằng tinh thần trách nhiệm nữa mà bằng tình yêu phục vụ. Tôi cũng không còn khó chịu và buồn bã khi mình không được làm những điều mình thích hay mình muốn, mà thay vào đó, tôi tập làm những việc nhỏ bé hơn với tâm tình đơn sơ hơn. Bởi lẽ, tôi biết rằng dù mình có làm được những việc lớn lao đi chăng nữa nhưng làm với một con tim trống rỗng thì những công việc ấy cũng không mang lại hoa trái cho bản thân tôi mà đôi khi nó còn phản tác dụng. Từ đó, tôi đúc kết cho một kinh nghiệm nho nhỏ khi đi tông đồ: “Một việc làm dù nhỏ nhưng nếu được thực thi với một tình yêu to lớn thì nó sẽ trở thành một việc vĩ đại”.
      Bài học thứ hai mà tôi cảm nghiệm được chính là cách thức mà tôi trao tình yêu của tôi cho họ. Quả thật, rất nhiều lần tôi cảm thấy thất vọng vô cùng khi việc tốt tôi làm cho họ nhưng lại không được đón nhận. Những lúc như vậy tôi cảm thấy rất tủi thân và hoang mang. Tôi không biết mình đã làm sai điều gì? Không biết do tôi hay do họ? Những câu hỏi đại khái như vậy cứ vây quanh tôi làm tôi cảm thấy rất khổ tâm và đôi khi chán nản. Nhiều lúc tôi như muốn nổi loạn, muốn xin Ban Giám Đốc cho đi nơi khác. Nhưng tôi chỉ nghĩ vậy thôi chứ chưa bao giờ trình bày với bề trên. Rồi một hôm, khi đang phát cháo cho bệnh nhân, tôi vô tình nghe được cuộc trò chuyện giữa hai bà cháu. Bà cụ dạy cháu mình về cách cho người khác một thứ gì đó, dù là của bố thí. Bà dùng câu nói của cổ nhân để dạy cháu: “Cách cho trọng hơn của cho”. Câu nói ấy cứ ám ảnh tôi mãi trong ngày hôm đó. Nó làm tôi suy nghĩ và cảm thấy cần phải đưa ngay câu nói này vào giờ cầu nguyện. Thật hạnh phúc biết bao khi Chúa đã giúp tôi hiểu ra điều mà tôi đang thắc mắc. Tôi cảm thấy xấu hổ và sai lầm khi khám phá ra rằng chẳng ai làm tôi tủi thân hay hoang mang cả, cũng chẳng do lỗi của ai hết. Tôi đã tự làm khổ chính mình khi luôn cho rằng: họ cần tôi và những gì tôi cho thì họ phải nhận. Cứ thế, dần dần tôi tự biến mình thành kẻ ban phát, hay đúng hơn là tôi đang làm thay công việc của Chúa Thánh Thần. Để rồi, khi ai đó từ chối tôi điều gì, thì tôi lại cho rằng họ là kẻ không biết điều và tôi trút sự bực tức, hằn học của mình lên họ, mà tôi nào biết rằng tôi đang phạm đến Chúa. Cũng may, nhờ cuộc Linh thao năm mà tôi đã nhận ra lầm lỗi của mình. Và giờ, tôi biết mình cần phải làm gì và làm như thế nào. Tôi đem câu nói ấy áp dụng vào việc tông đồ của mình, để rồi, tôi không còn cảm thấy xa lạ với họ nữa mà ngày càng cảm thấy yêu họ hơn. Những kinh nghiệm tông đồ và kinh nghiệm cầu nguyện đã làm hình thành nên một quan điểm, rằng: dù tôi chỉ làm cho họ một việc nhỏ, dù tôi chỉ cho họ một thứ gì đó không đáng giá nhưng tôi cho họ vì sự chân thành đi kèm với nụ cười thật tươi cũng đủ để làm họ ấm lòng.
      Và điều cuối cùng mà tôi nhận được từ những lần đi tông đồ như vậy chính là việc tôi đã nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Thật sự, tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về sự hiện diện của Đức Kitô nơi tha nhân. Đại loại như: Đức Kitô hiện diện nơi những người bé nhỏ, cô thế cô thân; nơi những em bé lang thang đầu đường xó chợ; nơi những người già cả neo đơn; nơi những kẻ tâm thần, hút chích, nghiện ngập; nơi những bệnh nhân…và những nơi khác nữa. Nhưng tôi chỉ dừng lại ở việc nghe mà thôi, hoàn toàn không cảm nghiệm được gì. Chính nhờ những lần được phục vụ ở đây, tôi mới thật sự nhận ra được lời mời gọi của Đức Kitô nơi gương mặt đầy khắc khổ và đau đớn của bệnh nhân. Và mỗi lần nhìn vào mắt họ, tôi như nghe thấy một tiếng gọi từ sâu thẳm nơi tâm hồn: “Thầy đây!”. Vâng, chỉ hai tiếng đơn giản vậy thôi nhưng lại làm tôi cảm thấy cần phải đặt lại mình dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, để tìm ra cho mình một thứ gì đó có thể lấp đầy những khoảng trống nơi tâm hồn khô khan này. “Thầy đây!”, chỉ có hai tiếng thôi nhưng nghe thật gần gũi và thân thương, cứ ngỡ như ai đó đang trấn an mình vậy. Đúng thế, có ai đó đang thì thầm bên tai tôi, nhắc nhở tôi về sự hiện diện của Chúa nơi họ. Và đây là điểm mấu chốt giúp tôi nhận ra lời mời gọi thật sự của Đức Kitô. Ngài không cần tôi phải làm những việc lớn lao, không cần tôi phải đi đến những vùng đất xa xôi để phục vụ tha nhân, mà ngay trong cộng đoàn này, tôi được mời gọi trở nên tông đồ của Chúa để phục vụ chính anh em mình, những người thật gần gũi và hiện diện cùng tôi mỗi ngày.
     Mặc dù ơn Chúa trên tôi không thiếu, nhưng tôi vẫn luôn thao thức làm sao để “xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10:2b). Với chút kinh nghiệm nhỏ nhoi học được từ những lần đi phục vụ tại bệnh viện, tôi muốn gửi đến anh em chút tâm tình, chút sẻ chia để cùng nhau ra đi “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”(Mc 16:15) theo cách thế của dòng Tên, vì“lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10:2a).

Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2020

Năm cách cầu nguyện như Chúa Giêsu

Trong các Phúc âm Mátthêu và Luca, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta Lời Kinh Của Chúa (Kinh Lạy Cha - Mt 6,9-15; Lc 11,1-4). Những lời Chúa Giêsu ban cho chúng ta được các Kitô hữu chấp nhận rộng rãi như một lời cầu nguyện hoàn hảo, nhưng nếu chúng ta đọc kỹ Phúc âm Mátthêu, chúng ta sẽ khám phá thêm không chỉ những lời Chúa Giêsu đã dạy mà còn là cách Ngài đã cầu nguyện. Cụ thể, chúng ta xem xét cách Chúa Giêsu cầu nguyện trước ba sự kiện quan trọng trong Phúc âm Mátthêu.
* Cho 5000 người ăn: "Nghe tin ấy, Đức Giêsu lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt." (Mt 14,13)
* Đi trên Biển hồ Galilê: "Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình." (Mt 14,23)
* Cuộc Khổ nạn và Đóng đinh Chúa Giêsu: "Bấy giờ Đức Giêsu đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các môn đệ: ‘Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.’" (Mt 26,36)
1. Cầu nguyện ở những nơi rất đẹp
Trong mọi trường hợp, Chúa Giêsu đều cầu nguyện ở ngoài trời, là những nơi có lẽ rất đẹp. Trước khi hóa bánh cho 5000 người ăn, Chúa Giêsu cầu nguyện trong một chiếc thuyền trên Biển hồ Galilê. Trước khi đi trên mặt Biển hồ Galilê, Chúa Giêsu cầu nguyện trên một ngọn núi gần biển hồ này. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và chịu đóng đinh, Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Giếtsêmani (Phúc âm Luca xác định nơi đó là Núi Ôliu).
Thiên Chúa tự mặc khải chính mình cho chúng ta trong Công trình Tạo dựng của Người. Những nơi tuyệt đẹp giúp chúng ta đắm chìm trong Công trình Tạo dựng của Thiên Chúa và nhắc nhớ chúng ta về tình yêu và vinh quang của Người.
2. Cầu nguyện bằng thân thể
Chúa Giêsu đã cố gắng không chỉ để đi đến những nơi cầu nguyện mà còn trong chính hành động cầu nguyện của Ngài. Phải tốn công tốn sức để có được một chiếc thuyền trên biển. Cũng vậy, phải nỗ lực để leo lên một ngọn núi. Hai đoạn Phúc âm đầu tiên không cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã đi xa bờ như thế nào hay Chúa Giêsu đã lên núi cầu nguyện bằng cách nào, nhưng rõ ràng Ngài đã chọn những địa điểm khó khăn mặc dù có những địa điểm thuận tiện hơn ở gần đó.
Trong vườn Giếtsêmani, mặc dù Chúa Giêsu không đi đến một địa điểm xa xôi, những Ngài đã nỗ lực chính trong hành động cầu nguyện. Thánh Mátthêu cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu rất "buồn rầu và xao xuyến" trong vườn Giếtsêmani và Ngài đã "sấp mặt xuống và cầu nguyện". Thánh Luca nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu thực sự đổ mồ hôi máu trong đêm trước cuộc Khổ nạn (Lc 22,44). Trong tác phẩm Lâu Đài Nội Tâm, Thánh Têrêsa Avila nói rằng cầu nguyện là "chiến đấu và làm việc để uốn lòng chúng ta theo thánh ý Chúa".
Cầu nguyện là một hoạt động bằng thân thể. Trong Thánh lễ, chúng ta cầu nguyện khi đứng khi quỳ và đôi khi chúng ta cúi đầu cầu nguyện. Chúng ta "thể hiện" những lời cầu nguyện của mình khi chúng ta cố gắng đi đến những nơi đặc biệt để cầu nguyện, chẳng hạn, một cuộc hành hương; cũng như trong những hành động bằng thân thể để cầu nguyện.
3. Cầu nguyện một cách tận tụy
Chữa lành và giảng dạy là một phần trong sứ vụ của Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dành thời gian để tạm gác những hoạt động đó mà cầu nguyện. Trong thực tế, chúng ta có thể suy ra từ Phúc âm Mt 14,23-25 rằng Chúa Giêsu đã dành rất nhiều thời gian để cầu nguyện. Bản dịch NABRE cho biết Chúa Giêsu đã ở một mình vào buổi tối và phải đến tận "giờ thứ tư", tức là trong khoảng thời gian từ 3:00 sáng đến 6:00 chiều, Ngài mới đến với các môn đệ trên Biển hồ Galilê. Nếu Chúa Giêsu bắt đầu cầu nguyện vào buổi tối và đưa thánh Peter lên khỏi nước trong giờ thứ tư, thì Ngài phải dành khoảng chín đến mười hai tiếng để cầu nguyện trước khi thực hiện phép lạ này. Trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu cầu nguyện ba lần riêng biệt suốt đêm.
Không có một đời sống cầu nguyện năng động, thì những hoạt động mục vụ của chúng ta sẽ vô ích. Do đó, chúng ta phải dành nhiều thời gian để cầu nguyện.
4. Cầu nguyện Cá nhân và trong Cộng đoàn
Một số nơi mà Chúa Giêsu đến cầu nguyện bị bỏ hoang hoàn toàn. Chúa Giêsu ở một mình trên thuyền trước khi cho 5.000 người ăn và trước khi đi trên mặt nước Biển hồ Galilê. Trong Vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ đi cùng, nhưng họ ngủ thiếp đi và Chúa Giêsu không thể đánh thức họ, nên Ngài tự mình cầu nguyện. (Mt 26,37)
Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta rằng "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ." (Mt 18,19-20)
Chúng ta có thể không dễ dàng cầu nguyện một mình, đặc biệt là đối với những người trong chúng ta là gia đình trẻ, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu coi trọng việc cầu nguyện một mình và biết rằng điều quan trọng là phải tránh xa đám đông ngay cả các môn đệ của mình để thỉnh thoảng ở một mình với Chúa Cha. Giống như Chúa Giêsu, chúng ta phải cầu nguyện trong cộng đoàn, nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng phải rút lui để rảo bước một mình với Chúa.
5. Cầu nguyện liên lỉ
Trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha ba lần riêng biệt. Ngài cũng kể cho chúng ta một câu chuyện về người hàng xóm cố chấp (Lc 11,5-8) và một dụ ngôn về người góa phụ cố chấp (Lc 18,1-1).
"Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?" (Lc 11,9-13)
Thánh Phaolô bảo chúng ta hãy “cầu nguyện không ngừng" (1 Tx 5,17).
Tác giả: Mr. Andrew Garofalo
Chuyển ngữ: Giacôbê Nguyễn Quốc Đạt
Xem nguyên ngữ tại đây.
 -----------------------------------------------------------------------
Ghi chú và tài liệu tham khảo:
- Unless otherwise indicated, all biblical citations and quotations are from the New Revised Standard Version (NRSV).
- Casciaro, Jose Maria., ed. The Navarre Bible: New Testament, Dublin: Four Courts Press, 2008.
- Harrelson, Walter J., ed. The New Interpreter’s Study Bible: New Revised Standard Version With the Apocrypha. Nashville: Abingdon Press, 2003.
- Senior, Donald, John J. Collins, and Mary Ann Getty, eds. The Catholic Study Bible. 2nd ed. New York: Oxford University Press, 2011.

Bắt đầu lại


Cuộc sống luôn có những khúc quanh với nhiều chọn lựa. Trước những khúc quanh ấy là một chọn lựa đầy khó khăn. Đôi khi phải trả giá đắt cho những chọn lựa của chính mình. Nhưng nếu không chọn lựa thì làm sao đi được tiếp. Bởi cuộc đời không phải là một đường thẳng rải đầy hoa hồng nhưng là một hành trình dài với nhiều thách thức và chông gai.
Một trong những cách tôi chọn để “quanh” mà không bị “ôm cua” là luôn bắt đầu lại cuộc sống của mình vào đầu tuần. Mỗi lần như thế, tôi hứa với Chúa là mình sẽ thật cố gắng để sống tốt hơn. Lúc ấy, lòng tôi đầy quyết tâm với nhiều kế hoạch thay đổi. Tôi vẽ ra một viễn tượng thật tuyệt vời cho mình. Nào là phải trung tín, phải ngăn nắp, phải siêng năng,… nhưng thực tế lại khác. Tôi bắt đầu kế hoạch của mình vào thứ hai với một tinh thần tràn trề nhiệt huyết. Nhưng đến khoảng thứ năm hay thứ sáu là tôi lại chuẩn bị và chờ đợi việc bắt đầu lại vào tuần sau. Khi ấy, tôi tự nhủ với lòng mình rằng: “Tuần này coi như không tính, tuần sau mình sẽ cố gắng hơn.” Rồi tôi lại sống vật vờ cho đến hết tuần. Cứ như thế, tôi thấy cuộc sống của mình thật đơn điệu và nhàm chán. Đôi khi tôi muốn buông xuôi và chuyển hướng. Nhưng rồi tôi lại nghĩ ở đây mình có điều kiện để phát huy mà lại không lớn lên thì sang một môi trường khác làm sao mình có thể trưởng thành được. Thế là tôi lại lên kế hoạch cho tuần kế tiếp. Khi đó, lời hứa vốn dĩ là biểu tượng của sự tín trung, lại trở nên phương tiện để tôi tự an ủi chính mình và thỏa hiệp với những yếu đuối của thân xác. Tôi lại hứa rồi lại thất hứa. Dường như cái vòng lẩn quẩn ấy vẫn chưa rời khỏi tôi cho đến lúc này. Nhưng tôi đã có một quyết định quan trọng hơn để chấm dứt tình trạng ấy. Tôi vẫn lên kế hoạch nhưng để sống với kế hoạch ấy, tôi bắt đầu loại bỏ một vài cản trở như internet, hướng ngoại, biếng nhác,… Và quan trọng hơn, tôi dâng lên Chúa những công việc của mình và cầu xin cho được vinh danh Thiên Chúa hơn qua chương trình sống cá nhân. Kết quả là tôi đã thực sự thay đổi, tuy chưa hoàn toàn nhưng tôi bình an và biết mình cần cố gắng hơn nữa. Hiện tại, tôi vẫn còn bắt đầu lại mỗi tuần nhưng với tinh thần phó thác và yêu mến hơn.
Qua kinh nghiệm của mình, tôi cảm thấy việc bắt đầu lại cuộc sống không phải là điều dễ dàng nhưng đó luôn là điều cần thiết và rất ích lợi. Tuy sẽ có những khó khăn nhưng nếu làm việc đó vì lòng mến Chúa thì tôi tin một ngày nào đó tôi sẽ làm được điều mà mình tưởng như không bao giờ thực hiện được.